Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Nhục Đậu Khấu trang 406-408 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là Nhục Quả, Ngọc Quả, Muscade, Noix De Muscade.
Tên khoa học Myristica fragrans Houtt
Thuộc họ Nhục đậu khấu Myristicaceae.
Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây:
- Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu.
- Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.
Mô tả cây
Nhục đậu khấu là một cây to, cao 8-10m. Toàn thân nhẫn. Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm, dai, phiến lá hình mác rộng, dài 5-15cm, rộng 3-7cm, mép nguyên, cuống lá dài 7-12mm. Hoa khác gốc mọc thành xim ở kẽ lá, có dáng tán. Màu hoa vàng trắng. Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng, đường kính 5-8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành 2 mảnh, trong có một hạt có vỏ dày cũng, bảo bọc bởi một áo hạt bị rách, màu hồng
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam Việt Nam và Campuchia. Còn mọc ở Inđônêxia, Malaixia, tây Ấn Độ, đã di thực được vào tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, giáp giới miền Bắc Việt Nam ta.
Trồng được 7 năm thì bắt đầu thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch 2 lần, một lần vào các tháng 11-12 và một lần vào các tháng 4-6. Khi đã bắt đầu thu hoạch thì có thể thu hoạch luôn trong vòng 60-75 năm. Mức thu hoạch cao nhất vào năm thứ 25. Từ năm thứ 10 đến năm thứ 25 hằng năm mỗi cây cho từ 1.500 đến 2.000 quả. nghĩa là chừng 8-10kg. Sau khi hái quả, loại bỏ vỏ quả. Sau đó lấy riêng áo hạt, ngâm muối rồi phơi hay sấy khô. Hạch đem sấy lửa nhẹ (60 độ) cho đến khi lắc lên thấy kêu lóc cóc (thường việc sấy này kéo dài tới 2 tháng) thì đem đập lấy nhân, phân loại to nhỏ rồi ngâm nước vôi, sau đó phơi hay sấy lại. Việc ngâm nước với này có mục đích để tránh bị sâu bọ mối mọt. Người ta phân loại nhục đậu khấu căn cứ vào to nhỏ, ví dụ 65, 80, 110 cho một bảng Anh (đơn vị trọng lượng). Càng ít nhân mà đã nặng bằng 1 bảng Anh là càng tốt.
Thành phần hóa học
Nhục đậu khấu có chứa tinh bột, chất protein, chừng 40% chất béo đặc gọi là bơ nhục đậu khấu (Beurre de muscade), 8-15% tinh dầu và 3-4% chất nhựa.
Tình đầu nhục đậu khấu là một chất lỏng không màu hay hơi vàng nhạt, mùi thơm, vị nóng, gồm một hỗn hợp các chất pinen và camphen quay phải (80%), dipenten (8%), cồn tecpenic (linalol, bocneol, tecpineol và geraniol) 6%, một ít eugenol và safrol, chất myristixin (4%) v.v…
Myristixin có công thức C11H12O3, có tinh thể màu vàng, có độc.
Tỷ trọng 0,870-0,925; năng suất quay cực phải (C),+16° đến +30. Tan trong một thể tích cồn 90°; độ sôi 115C đến 300°C. Nhục đậu khấu phải cho 25% cao ete, nhiều nhất 5% tro toàn bộ và nhiều nhất 0,50% tro không tan trong HCI.
Nhục đậu khấu y hay ngọc quả hoa chứa 8% tinh dầu, chất nhựa và chất pectin. Tinh dầu không màu hay đỏ nhạt, rất lỏng, quay phải. mùi vị nồng giống như nhục đậu khấu, cất theo ở nhiệt độ 155°C đến 183°C.
Bơ nhục đậu khấu (beurre de muscade) chứa chừng 70-75% myristin. Ta có thể tách myristin ra dễ dàng do myristin ít tan trong cớn lạnh. Ngoài ra còn 10-20% olein, 1% butyrin, axit loric, 1-2% axit panmitic, 7-8% stearin và 1% axit linoleic. Trong bơ nhục đậu khấu còn có 2- 3% tinh dầu làm cho bơ có mùi thơm, nhựa, chất màu, chừng 18,7% chất không xà phòng hóa được.
Myristin xà phòng hóa sẽ cho axit myristic và glyxerin. Axit myristic là một chất béo trắng cứng, không mùi, màu trắng, có thể có tinh thể.
Tác dụng dược lý
Nhục đậu khấu và ngọc quả hoa đều là những vi thuốc thơm, có tác dụng kích thích. Được dùng trong cả đông y và tây y. Nhưng dùng với liều cao thì có thể gây độc: Dùng nguyên cả một hạt đã có hiện tượng độc. Sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi trì độn và ngủ gà. Purkinje đã cảm thấy một hiện tượng tê mê sau khi dùng nhục đậu khấu. Theo Leclerc đã có nhiều trường hợp ngộ độc xảy ra ở Anh và Mỹ, trong đó có một trường hợp chết người với hiện tượng dẫn đồng từ như khi bị ngộ độc do benladon.
Dùng ít thì xúc tiến sự bài tiết dịch vị, giúp sự tiêu hóa, kích thích nhu động ruột, gây ăn ngon nhưng uống nhiều quá sẽ làm say tẻ, có khi tiểu tiện ra huyết rồi chết.
Đông y ghi tính chất của nhục đậu khấu là vị cay, tính ôn, hơi độc, vào 3 kinh tỳ vị và đại trường có năng lực ồn tỷ, sáp tràng, chỉ nôn, chỉ tả lỵ, tiêu thực, chữa lạnh bụng, đau bụng, đầy chướng. Phàm nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát chớ có dùng.
Công dụng và liều dùng
Nhục đậu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hóa, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét.
Dùng dưới dạng bột hay dạng thuốc viên. Ngày uống 0,25 đến 0,50g. Có khi có thể dùng 2 đến 4g. Nhưng dùng liều quá cao có thể gây độc.
Bơ đậu khấu dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp, đau người.
Ngọc quả hoa dùng như nhục đậu khấu.
Đơn thuốc có Nhục Đậu Khấu
- Chữa bệnh kém ăn, ăn uống không tiêu
Nhục đậu khấu 0,50g; nhục quế 0,50g; đinh hương 0,20g tất cả tấn thành bột, trộn với đường sữa 1g. Chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mà lần 1 gói.
- Thuốc giúp sự tiêu hóa, kém ăn, nôn mửa đau bụng
Quế tán thành bột 100g, nhục đậu khấu từ thành bột 80g, đinh hương tán bột 40g, sa nhà 30g tán bột, canxi cacbonat bột 250g, đường 500g tán nhỏ. Tất cả trộn đều. Ngày dùng 0,50g đến 4g bột này.
Để thêm tác dụng có thể pha vào bột trên mà ít bột thuốc phiện theo tỷ lệ như sau: Bột ch như trên 975g, bột thuốc phiện 25g. Tất cả trộn đều. Dùng liều lượng như trên trong các trường hợp đau bụng, đi lỵ. Dùng cẩn thận vì có thuế phiện.