Thị Đế (Tai Hồng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

231
Thị Đế
Thị Đế
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Thị Đế trang 754-755 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là thị đinh, tai hồng, hồng.

Tên khoa học Diospyros kaki L. f.

Thuộc họ Thị Ebenaceae.

Thị đế (Calyx kaki) là tai hồng phơi hay sấy khô. Cây hồng có tên Trung Quốc là thị: Để là tai, là đế.

Mô tả cây

Cây hồng là một cây nhỡ cao chừng 5-6m, có thể tới 10m nhiều cành. Lá mọc so le, có cuống ngắn, dài không quá 1cm. Phiến lá thuôn hình trứng, dài 7-14cm, rộng 4-8cm, mép nguyên hay hơi lượn sóng. Tháng 6 ra hoa màu vàng trắng nhạt. Cây đực, cây cái riêng biệt hoặc có khi hoa đực, hoa cái có trên cùng một cây. Hoa đực mọc từng 2-3 cái một thành hình tán, hoa cái mọc đơn độc. Tháng 9-10 ra quả khi chín có màu vàng hay đỏ thẫm.

Hình ảnh Thị Đế
Hình ảnh Thị Đế

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây hồng được trồng tại khắp các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Nó mọc hoang tại Trung Quốc và Nhật Bản.

Sau khi ăn hồng, thu lấy tại (để) phơi hay say khổ là được.

Thành phần hoá học

Trong tai hồng có các chất tanin đặc biệt bao gồm axit tritecpenic (độ chảy 82°C), axit ursolic, oleanolic và axit betulinic.

Trong quả hồng xanh có chất tanin làm cho quả hồng có vị rất chát, khi chín vị chất hầu như mất đi. Khi đó lượng đường có chừng 13-19% dưới dạng glucoza, sacaroza và fructoza, 1,15-1,60% chat protein.

Công dụng và liều dùng

Tai hồng là một vị thuốc còn dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân để chữa ho, rác, đi đái đêm.

Ngày dùng 6-10g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Theo tài liệu cổ, thị đế vị đắng, tính ôn, vào kinh vị. Có tác dụng ôn trung hạ khí. Dùng chữa ách nghịch, y khí (ợ, nác).

Bài thuốc có thị để dùng trong nhân dân 

Chữa đầy bụng, nấc:

Thị đế 8g, đinh hương 8g, sinh khương 5 lát, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia nhiều lần uống trong ngày.

Có bài thuốc khác có những vị trên nhưng lại thêm các vị trần bì 4g, thanh bì 4g, bán hạ 2g, cũng dùng chữa nấc và đầy bụng không tiêu.

Trong khi dùng, cần tuỳ trường hợp thêm bớt vị đinh hương và thị đế, ví dụ nóng nhiều thì giảm đinh hương, tăng thị đề, ngược lại lạnh nhiều thì tăng đinh hương, giảm thị đế. Liều đinh hương tuy nhiên không nên dùng quá 10g.

Chú thích:

Tại Trung Quốc, người ta còn dùng hồng dưới 2 dạng khác nữa:

I. Thị sương (Saccharum Kaki) chất đường trong quả hồng. Khi người ta làm mứt hồng, chất đường tiết ra thu thập lấy, gọi là thị sương. Cho vào nồi, đun lửa nhẹ, khi thành đường thì đổ vào khuôn, phơi cho se thì dùng dao cắt rồi phơi khô hẳn. Nhân dân Trung Quốc dùng chữa đau cổ họng, ho, cổ họng khô.

2. Thị tất (Succus kaki siccatus) là nước ép từ quả hồng khi còn chưa chín, phơi hay sấy khô. Nhân dân Trung Quốc dùng chữa cao huyết áp có kết quả.

Người ta nghiên cứu thấy trong thị sương có đường manit và trong thi tất có chất tanin gọi là shibuol C14H27O2.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!