Sinh Địa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

207
sinh địa
sinh địa
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Sinh Địa trang 837 – 841 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là địa hoàng, thục địa.

Tên khoa học Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch (Digitalis glutinosa Gaertn).

Thuộc họ Hoa mõm chó Scrophulariaceae.

Sinh địa (Rhizoma Rehmanniae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây địa hoàng hay cây sinh địa.

Thục địa là sinh địa đem chế biến theo một phương pháp riêng (thục là nấu, chín).

Mô tả cây

Sinh địa là một cây thuộc thảo, cao độ 10- 30cm. Toàn cây có lông mềm và lòng bài tiết màu tro trắng. Thân rễ mọc thành củ, lúc đầu mọc thẳng, sau mọc ngang, đường kính từ 0,4 đến 2-3cm. Lá mọc vòng ở gốc, ít khi thấy ở thân, phiến lá hình trứng ngược, dài 3-15cm, rộng 1,5-6cm, đầu lá hơi tròn, phía cuống hẹp lại, mép lá có răng cưa mấp mô không đều, phiền lá có nhiều gân nổi ở mặt dưới chia lá thành những múi nhỏ. Mùa hạ nở hoa màu tím đỏ mọc thành chùm ở đầu cành. Đài và tràng đều hình chuồng, tràng hơi cong, dài 3-4cm, mặt ngoài tím sẫm, mặt trong hơi vàng với những đốm tím, 4 nhị với 2 nhị lớn (Hình 642, Hm 36,2).

Ở Việt Nam ta chưa thấy có quả. Tại Trung Quốc mùa hoa là tháng 4-5, mùa quả tháng 5-6.

Ngoài cây sinh địa kể trên, thị trường Trung Quốc còn dùng một loại sinh địa nữa: Rehmannia lutea Maxim. var. purpurea Makino.

Sinh địa trước đây hoàn toàn phải nhập từ Trung Quốc và Triều Tiên.

Từ năm 1958, chúng ta đã đi thực thành công cây sinh địa. Hiện nay đang phát triển ở khắp các địa phương.

Qua kinh nghiệm trồng mấy năm gần đây. tỉnh nào cũng có thể trồng sinh địa, miễn là nhiệt độ không dưới +3″ trong nhiều ngày.

Đối với các tỉnh miền núi cao hay nơi lạnh nhiều, mỗi năm chỉ có thể trồng được một vụ (giống như nhiều tỉnh Trung Quốc): Vào cuối xuân (tháng 3, tháng 4 dương lịch) thì trồng và thu hoạch vào tháng 8-9. Nếu trồng vào mùa thu, cây không phát triển được vào mùa lạnh.

Đối với các tỉnh miền trung du và đồng bằng mỗi năm có thể trồng hai vụ; Một vụ trồng vào tháng 1-2, thu hoạch vào tháng 7-8, một vụ trồng vào tháng 7-8 và thu hoạch vào tháng 2-3.

Thực tế còn có thể trống vào những tháng khác nữa, nhưng 2 vụ trên đem lại năng suất cao nhất.

Trống bằng thân rễ, mỗi mẫu dài 1-2cm. Cắt xong đem trong ngay hoặc ủ ở vườn ươm đến khi nảy mầm mới đem trống, mỗi hồ cách nhau 10-15cm.

Đất trống cần loại đất tơi, xốp như đất phù sa. đất trống màu. Phân bón tốt nhất là tro bếp, phân kali. Khi cây có hoa, cần ngắt hoa đi để củ được to và tốt.

Sau khi trống 6 tháng rưỡi có thể thu hoạch. Năng suất 1 hecta cho từ 3 đến 7 tấn, tùy theo vụ trống và cách chăm sóc.

Củ sinh địa hái về có thể bảo quản trong các ẩm gọi là sinh địa tươi hay sinh địa hoàng tươi có màu vàng đỏ trông như củ khoai nghệ

Nếu rửa sạch, sấy khô hoặc phơi khô (nên ản dụng sấy tốt hơn) ta sẽ được vị sinh địa khó hay sinh địa.

Thục địa hay thục địa hoàng là sinh địa chế biến một cách đặc biệt. Cách chế biến thay đổi tùy theo địa phương và tùy theo người chế biến chưa thống nhất. Sau đây là một phương pháp giới thiệu trong các tài liệu của Trung Quốc.

“Chọn các củ sinh địa to, ngâm nước, cọ sạch đất, lấy sinh địa vụn nát nấu lấy nước, nước đó tẩm sinh địa xong rồi đem đó, đổ xong lại phơi, phơi khô lại tắm. Tẩm và đó như vậy 9 lần (gọi là cửu chưng cửu sái, chừng-đỗ, sái phơi=9 lần đồ, 9 lần phơi) khi màu thục đen nhánh là được”.

Khi nấu cần chú ý dùng đồ sành, tránh dùng đồ đồng vì theo sách cổ, nếu dùng đã đóng để nếu nam giới uống sẽ bại thận, tóc bạc, phụ nữ dùng sẽ tổn huyết

– Theo Lý Thời Trần (trong Bản thảo cương mục) nên tán sa nhân với rượu mà nấu thì thục địa sẽ tốt, vì địa hoàng tỉnh rất trẻ, sa nhân nhẹ và thơm sẽ điều hoà được ngũ tạng.

– Có tác giả khác lại cho rằng không cán chế thành thục địa vì thời Trương Trọng Cảnh (một danh y Trung Quốc thời cổ) người ta không chế thục địa, mà chỉ dùng sinh địa.

Ở nước ta, có nơi chế thục địa như sau: “Cho sinh địa vào thùng (sức chứa cả nước lẫn cù độ 100kg): Cù to xuống dưới cũ nhờ ở giữa, nhỏ lên trên. Cứ 80kg sinh địa, cho 10 lít rượu 40. Đun lửa làm cho đến khi sôi. Khi đã sôi, cho nhỏ lửa. Giữ như vậy 6-8 giờ cho đến khi cạn nước. Trong thời gian đun, cách 1 giờ lại múc nước ở dưới nói tuổi lên củ cho thấm đều.

Sau đó lấy ra phơi. Sau 3 ngày phơi lại đem nấu lần thứ hai, nhưng thêm 2kg gừng giã nhỏ. cho vào nước khuấy đều, lọc lấy nước. Sau đó vớt ra phơi, rồi lại nấu, làm như vậy 5-7 lần đến khi màu thục đen nhánh là được.

Do cách chế biến khác cho nên sinh địa và thục địa có tính chất khác nhau. Vì thục địa có thêm tác dụng của sa nhân, hay gừng và vì nấu lâu, các chất ở trong có thể thay đổi.

sinh địa
sinh địa

Thành phần hoá học

Trong sinh địa, các nhà nghiên cứu Nhật Bản (1928) và Triều Tiên (1932) đã lấy ra được các chất manit C H (OH), rehmanin là một glucozit, glucoza và một ít caroten.

Gần đây có tác giả (Trung Quốc) cho rằng trong sinh địa có ancaloit.

Chất manit có tính thể không màu, hơi ngọt dễ tan trong nước, hơi tan trong cồn, không tan trong ête, độ chảy 165-166°C, tỷ trọng 1,52, nhiệt độ sẽ làm cho manit chuyển thành manitan C6H12O5, và manid C6H10O4. Năm 1971, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nghiên cứu vị sinh địa Hoài Khánh (Rehmannia glutinosa Libosch forma hurichingensis Hsiao) đã chiết được những chất như sau:

– Từ dịch chiết bằng mentanol cô cạn rồi pha loãng bằng nước và chiết lại bằng butanol. Bốc hơi butanol rồi lác với ête để loại tạp chất. Phần còn lại cho sắc ký khí qua cột dùng chất hấp thụ là than hoạt: selit (1-1), khai triển bằng dung môi nước và cốn tăng dẫn. Trong phân phân đoạn còn 5-10% có chất catalpol, một iridoit glucozit có độ chảy 207-209″C, a” =122″, hàm lượng 0,11% trong củ tươi.

– Từ dịch chiết nước đã xác định được những thành phần sau đây: 15 axit amin và D- glucozamin (trong phân đoạn kiểm), axit photphoric (trong phân đoạn axit), phần chính còn lại (trong phân đoạn trung tính) là các cacbohydrat: D-glucoza, D-galactoza, D-fructoza. sucroza, raffinosa, mannotrioza, stachioza. vesbascoza, và D-mannitol. Chủ yếu là stachyoza với hàm lượng 48,3% (so với dược liệu khô).

– Trong sinh địa tía (Rehmannia glutinosa var. purpurea) thì thành phần chủ yếu trong phân đoạn trung tính vẫn là stachyoza, còn trong phân đoạn kiểm là acginin với 4,2%, trong phân đoạn axit là axit y-aminobutyric với 3%. Catalpol có tác dụng hạ thấp đường huyết trên súc vật thí nghiệm. Ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu và tẩy nhẹ.

Tác dụng dược lý 

  1. Tác dụng đối với huyết đường.

Năm 1930, Mẫn Binh Kỳ (Nhật Bản) đã báo cáo sinh địa có tác dụng hạ huyết đường. sắc nước sinh địa cho thỏ uống không có hiện tượng huyết đường tăng, lúc đầu thấy có tác dụng ức chế, tác dụng ức chế này rất mạnh.

Trong cồn ngâm sinh địa có chứa chất rehmanin có lẽ đó là thành phần gây hạ huyết đường. Năm 1932 Kim Hạ Thực (Nhật Bản) đã tiêm dưới da cho thỏ, chất rehmanin với liều 0.5g/1kg thể trọng rồi theo dõi ảnh hưởng đối với huyết đường thì thấy sau 30 phút lượng huyết đường giảm xuống, 4 giờ sau lượng huyết hạ thấp nhất, rồi dần dần trở lại bình thường, 7 giờ sau khi tiêm, lượng huyết trở lại mức bình thường.

Nhưng chưa rõ rehmanin có tác dụng ức chế đối với huyết đường tăng cao do adrenalin hay không, chỉ mới thấy có tác dụng ức chế đối với lượng natri clorua.

Năm 1935, Kinh Lợi Ban và Thạch Nguyên Cao báo cáo: Dùng còn 70 chiết suất sinh địa rồi chế thành cao lỏng (1ml tương đương ig sinh địa) tiêm vào dưới da thì với liều 2ml/1kg thể trọng và cho uống với liễu 4ml/1kg thể trọng. tối cứ cách 1 giờ lại định lượng huyết đường một lần (định lượng theo phương pháp Deniges), tiến hành tất cả 5 lần định lượng. Kết quả là tiềm thuốc dưới da làm cho lượng huyết đường giảm xuống; 4 giờ sau khi tiêm, lượng đường xuống rõ nhất, sau đó trở lại bình thường, uống sinh địa cũng làm lượng đường giảm xuống nhưng không bằng tiêm.

Các ông còn dùng nước sắc đảng sâm (xem vị này) với liễu 4ml/1kg thể trọng rồi lại tiêm dung dịch sinh địa 2ml/1kg thể trọng, thì thấy sinh địa có khả năng ức chế khả năng của các hợp chất cacbon hydrat, làm kéo dài sự tăng lượng huyết đường.

Năm 1945, Georges Gabriel R. và đồng sự đã báo cáo dùng cần 80 chiết suất sinh địa và chế thành cao (Imi tương đương 2g sinh địa), loại các hợp chất có đường đi rồi tiến hành thí nghiệm trên thỏ để theo dõi ảnh hưởng đối với huyết đường. Kết quả 10ml cao sinh địa tiêm vào bắp thịt thỏ có thể hạ 2/3 huyết đường do adrenalin gây ra, tiềm cao sinh địa trước khi tiêm adrenalin thì có thể để phòng hiện tượng huyết  đường quá cao. Tiêm 20ml cao sinh địa vào bắp thịt một con chó nặng 4,5kg có thể hạ thấp lượng huyết đường do tiêm 20ml dung dịch 25% glucoza đưa đến huyết đường quá cao, nếu cho uống cũng có kết quả.

Các ông cũng đã nêu lên rằng hoạt chất gây hạ huyết đường trong sinh địa là một chất tan trong nước, trung tính màu vàng nhạt giống như dấu, có thể có chứa sunfua và nitơ

  1. Tác dụng đối với huyết quản.

Năm 1936 Kinh Lợi Ban và Thạch Nguyên Cao đã báo cáo: Sinh địa ngoài tác dụng làm hạ huyết đường, còn có tác dụng đối với mạch máu ở tim. Các ông đã dùng dung dịch 0,1-0,5% cao sinh địa trong nước Locke Ringer trên tim ếch cô lập thấy rằng liều nhỏ không có tác dụng rõ rệt, liều trung bình có tác dụng mạnh tim, tìm càng yếu, tác dụng càng rõ rệt, liều cao có thể làm cho tâm thất ngừng co bóp.

Tiêm nước sinh địa vào tĩnh mạch thỏ hoặc chó đã gây mê, có thể làm tăng huyết áp, nhưng nếu tiêm vào tĩnh mạch chó gây mê đã cắt bỏ não, huyết áp không tăng, do đó các ông đã kết luận là nguồn gốc tăng huyết áp là do trung khu thần kinh.

Nếu pha cao sinh địa trong dịch Locke-Ringer rồi dùng phương pháp Trendelenberg cho vào mạch máu thì thay liều nhỏ làm co mạch, liều lớn làm dẫn mạch

  1. Tác dụng lợi tiểu

Năm 1936, hai ông Kinh Lợi Bản và Thạch Nguyên Cao theo phương pháp đếm số giọt nước tiểu của chó gây mê bằng cloral hydrat được tiềm thuốc sinh địa vào tĩnh mạch thì thấy lượng nước tiểu tăng lên, do đó kết luận sinh địa có tác dụng lợi tiểu.

  1. Tác dụng cầm máu:

Năm 1939, một tác giả Nhật Bản đã dùng cồn chiết suất được tinh thể màu vàng hình trâm, thí nghiệm tìm ảnh hưởng đối với thời gian đông máu, thấy có khả năng rút ngắn thời gian đông máu của thỏ và kết luận địa hoàng có tác dụng cầm máu.

  1. Tác dụng đối với vi trùng:

Năm 1952, Đặng Vũ Phi (Trung Quốc) đã báo cáo sinh địa có tác dụng ức chế sự sinh trưởng kén một số vi trùng.

Công dụng và liều dùng

Do tác dụng ức chế huyết đường, lợi tiểu và mạnh tim, sinh địa được dùng trong bệnh đường tiện (đi đái đường), thiếu máu, suy nhược. khuynh hướng chảy máu.

Liều dùng. Ngày uống 9-15g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc cao. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Theo kinh nghiệm cổ, sinh địa và thục địa đều là thần dược (thuốc quý rất tốt) để chữa bệnh về huyết, nhưng sinh địa thì mát huyết, người nào huyết nhiệt nên dùng, thục địa ổn và bổ thận, người nào huyết suy thì nên dùng

Hoặc có tài liệu nói: “Năng lực của sinh địa là bổ chân âm, lương nhiệt huyết, là vị thuốc bổ dương, cường tráng”

Còn thục địa bổ tinh tủy, nuôi can thận, sáng tài mát, đen râu tóc là thuốc từ dưỡng, cường trắng, những người lao thần khổ trí lo nghĩ hại huyết, tình dục hao tỉnh nên dùng thục địa

Những người tỳ vị hư hàn không nên dùng.

Theo tài liệu cổ, sinh địa có vị ngọt, đắng. tính hàn, vào 4 kinh tâm, can, thận và tiểu trường. Sinh địa có tác dụng thanh nhiệt, mát máu (khô có tác dụng tư âm, dưỡng huyết), dùng chữa thương hàn ôn bệnh, yết hầu sưng đau, huyết nhiệt tân địch khô kiệt, thổ huyết, băng huyết, kinh nguyệt không đều, động thai

Thục địa vị ngọt, tính hơi ôn, vào 3 kinh tâm, can và thận. Có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm bổ thận, làm đen râu tóc, chữa huyết hư, kinh nguyệt không đều, tiêu khát, âm hư họ, suyễn. 

Các đơn thuốc có sinh địa và thục địa 

  1. Bài thuốc lục vị địa hoàng hoàn chữa đau đầu, chóng mặt, cổ khổ đau, miệng lưỡi lở loét, tai ù, răng lung lay, lưng đau gối mỏi, di tinh, mộng tinh, mồ hôi trộm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, trẻ con gầy yếu.

Bài thuốc: Thục địa 320g (8 lạng), sơn thủ du, sớm được hay hoài sơn mỗi vị 160g (4 lạng), mẫu đơn bì, bạch phục linh, trạch tả mỗi vị 120g (3 lang).

Năm vị sau sấy khô tán nhỏ, giã thục địa cho thật mềm nhũn, trộn đều, thêm mặt ông viên thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 20-30 viên (8-12g), chia hai lần uống trong 15 phút trước. khi ăn cơm.

  1. Bài thuốc Kinh ngọc cao (bài thuốc bố của Chu Đan Khê) dùng trị ho khan, bệnh lao.

Sinh địa 2.400g (4 căn ta), bạch phục linh 480g (12 lạng ta), nhân sâm 240g (6 lạng), mật ong tráng 1.200g (2 căn ta). Giã sinh địa vật lấy nước, thêm mật ong vào, nấu sôi, thêm hạch phục linh và nhân sâm đã tán nhỏ, cho vào lọ, đậy kín, đun cách thuỷ 3 ngày 3 đêm, để nguội. Mỗi lần uống 1-2 thia, ngày uống 2-3 lần.

  1. Bài thuốc hoàng liên viên (theo sách Thiên Kim Phương) chữa gầy yếu có thể trị đường niệu (đái đường). Sinh địa 800g. hoàng liên 600g. Giã sinh địa vắt lấy nước, tẩm vào hoàng liên, lấy hoàng liên phơi khô rồi tẩm, cứ như vậy cho đến hết nước sinh địa. Tán nhỏ hoàng liên. Thêm mặt vào viên thành viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 20 viên, mỗi ngày uống 2-3 lần.
Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!