Cây Măng Cụt (Sơn Trúc Tử) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

252
Măng Cụt
Măng Cụt
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Măng Cụt trang 428-429 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Sơn Trúc Tử, Mangoustanier.

Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.).

Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttiferae).

Tuy mang tên Sơn Trúc Tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.

Mô tả cây

Măng cụt là một loại cây to, có thể cao tới 20m. Lá dày, dai, màu lục sẫm, hình thuôn dài 15-20cm, rộng 7-10cm.

Đặc điểm của cây này là người ta mới chỉ thấy cây cái. Người ta cho rằng trong số những nhị lép (staminode) bao quanh bầu có thể có bao phấn chứa phấn hoa.

Quả hình cầu, to bằng quả cam trung bình, vỏ ngoài màu đỏ sẫm, dãy cứng, phía dưới có lá đài, phía đỉnh có đầu nhụy. Trong quả có từ 6 đến 18 hạt, quanh hạt có áo hạt ăn được

Măng Cụt
Măng Cụt

Phân bố, thu hái và chế biến

Người ta cho rằng cây măng cụt nguồn gốc ở các đảo La Sôngđơ và Moluyc (Malaixia, Inđônêxia) sau được các nhà truyền giáo đạo gia tổ di thực vào miền Nam Việt Nam. Hiện nay được trồng rộng rãi ở Nam Bộ. Còn thấy ở Philippin, Indonesia, Malaysia.

Người ta trồng chủ yếu để lấy áo hạt mà ăn; vỏ quả phơi khô dùng chữa đi ỉa lỏng hay đi lỵ. 

Thành phần hóa học

Áo của hạt có vị ngọt, thơm ngon. Khi mới chín có màu trắng trong, nhưng sau ít ngày thì ngả màu vàng, kém thơm và có vị chát do đó khó chuyên chở đi xa. Thành phần hóa học chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Vỏ quả được nhiều người nghiên cứu hơn vì người ta hy vọng dùng nó để thuộc da. Trong vỏ quả có chứa từ 7-13% tanin. Tuy nhiên không được dùng thuộc da vì theo yêu cầu của những nhà thuộc da, nguyên liệu dùng để thuộc không được chứa quá một phần không phải tanin (tối đa) so với 2 phần tanin. Trong khi đó vỏ măng cụt chứa trong phần tan trong nước khoảng 13,61% tanin và 14,59% không phải tanin (theo Bull. Office Colonial, số 136, tháng 4-1919).

Ngoài tanin ra, trong vỏ quả măng cụt, theo W.Schmidt còn có chất nhựa và chất mangostin (C20H22O5), có tinh thể hình phiến nhỏ, màu vàng tươi, không vị, tan trong rượu, ête và chất kiềm, không tan trong nước. Độ chảy 175°C. Chất mangostin có thể chiết suất như sau: Lấy kiệt vỏ măng cụt bằng nước lạnh, sau bằng nước sôi. Hợp cả hai nước đó lại. Có đặc và bốc hơi cho khổ. Rửa cặn bằng nước rồi hòa tan bằng rượu. Thêm nước xuất hiện một đám tinh thể. Gạn và ép. Khi thêm và axit axetic vào dung dịch. Để một thời gian sẽ vào chất mangostin dung dịch clorua ferric, sẽ có màu lục đen nhạt. Nếu thêm axit sunfuric sẽ có màu đỏ.

Công dụng và liều dùng

Tại nhiều nước Malaysia, Campuchia, Philippin,người ta dùng nước sắc vỏ măng cụt để làm thuốc chữa đau bụng đi ỉa lỏng, chữa lỵ, có khi còn dùng chữa bệnh hoàng đản (vàng da). Cách dùng như sau:

Cho chừng 10 vỏ quả măng cụt vào một nồi đất hay nổi đồng (tránh nổi sắt hay nổi tôn) thêm nước vào cho ngập rồi đun sôi kỹ trong vòng 15 phút. Ngày uống 3 đến 4 chén to nước này.

Có thể dùng theo đơn sau đây: Vỏ quả măng cụt 60g, hạt mùi 5g, hạt thìa là 5g, nước 1200m. sôi, sắc kỹ cho cạn còn chừng một nửa (600m). Mỗi lần uống 120ml. Uống mỗi ngày 2 đau bụng có thể thêm ít thuốc phiện. Trong hợp này không dùng cho trẻ con được. 

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!