Cây Lá Ngón (Đoạn Trường Thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

224
Cây Lá Ngón
Cây Lá Ngón
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Cây Lá Ngón trang 319-321 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Co Ngón (Lạng Sơn), Thuốc Dút Ruột- Hồ Mạn Trường-Đại Trà Đằng, Hồ Mạn Đằng, Hoàng Đằng, Câu Vẫn, Đoạn Trường Thảo.

Tên khoa học Gelsemium elegans Benth (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume).

Thuộc họ Mã tiền Loganiaceae.

Cây lá ngón được coi là loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người.

Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocarya tonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.

Mô tả cây

Đoạn là đứt, trường là ruột, tên đoạn trường thảo vì người ta cho rằng uống vị này sẽ bị đứt ruột mà chết.

Đoạn trường thảo hay cây lá ngón là một loại dày mọc leo, thân và cành không có lông, trên thân hơi có khía dọc. Lá mọc đối, hình trứng thuôn dài, hay hơi hình mác, đầu nhọn, phía cuống nhọn hay hơi từ, mép nguyên, bóng, nhẫn, dài 7-12cm, rộng 2,5-5,5cm. Hoa mọc thành xim ở đầu cành hay ở kẽ lá. Cánh hoa màu vàng. Có tài liệu nói hoa màu trắng, nhưng bản thân tôi đã kiểm tra lại là màu vàng (tại Lạng Sơn và các nơi khác: Sapa, Hà Giang). Mùa hoa tháng 6-8-10. Quả là một nang, dài, màu nâu hình thon, dài 1cm, rộng 0,5cm. Hạt nhỏ, quanh mép có rìa mỏng màu nâu nhạt, hình thận.

Cây Lá Ngón
Cây Lá Ngón

Phân bố

Cây lá ngón khá phổ biến ở miền rừng núi Việt Nam. Người ta thường không dùng làm thuốc, mà chỉ dùng để tự tử hay với mục đích đầu độc. Các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Hà Tây, Lào Cai, Cao bằng, Tuyên Quang, Hà Giang đều có. Còn có ở một số nước ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á. Ở Trung Quốc người ta thấy ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Bắc châu Mỹ có loài Gelsemium sempervirens Art

Nhân dân ta hay dùng lá như trên đã nói, trái lại Trung Quốc hay dùng rễ và bán tại các hiệu thuốc để làm thuốc chữa hủi hay chữa bệnh nấm ở tóc (Meigne). Cũng được dùng với mục đích đầu độc.

Thành phần hóa học

a) Từ loài cây ngón mọc ở bắc châu Mỹ- Gelsemium sempervirens nhiều tác giả đã chiết ra được nhiều loại ancaloit đặt tên là gelsemin C20H22O2N2 có tinh thể, độ chảy 178°C chất gelmixin C19H24O3N2 (lúc trước có tác giả xác định độ chảy 171 độ) chất sempecvirin và sempecvin. Hai chất sau tương tự với nhau nhưng độ chảy khác nhau. Tất cả đều có độc tính rất mạnh, gần như tác dụng của strycnin, chất ancaloit trong mã tiền.

b) Năm 1931, Triệu Thừa Cổ (Trung Quốc sinh lý học tạp chí, 1931, 5: 334 và 1936, 10: 79) đã nghiên cứu rễ, thân rễ và cành của cây đoạn trường thảo Trung Quốc (Gelsemium elegans) cùng loại với ta, đã chiết xuất được 4 loại ancaloit có tính chất và đặt tên như sau:

  • Kuminin vô định hình, không màu, dễ tan trong ete và trong nhiều dung môi hữu cơ khác, khó tan trong nước, từ dung dịch ete để bốc hơi sẽ cho chất có độ chảy thay đổi nhưng trên 115°C. Muối clohydrat có tinh thể không màu hình trụ, độ chảy trên 300°C, tan trong axit sunfuric đặc cho dung dịch không màu, thêm kali bicromat lúc đầu cho màu tím, sau chuyển màu nâu và cuối cùng màu xanh.
  • Kuminixin vô định hình, muối clohydrat tan trong nước, có năng suất quay cực trái.
  • Kuminidin có tinh thể hình trụ không màu độ chảy 200° C (?) có thể tan nhiều trong dung môi hữu cơ và nước, cho muối clohydrat tan trong nước, hòa tan trong axit funfuric đặc sẽ cho dung dịch không màu, khi thêm kali bicromat sẽ chuyển màu xanh vàng và không xuất hiện màu tím.

Tỷ lệ cả bốn loại ancaloit trên trong nguyên liệu là 0,3%. Từ lá ngón Triệu Thừa Cổ cũng lấy ra được 4 ancaloit là gelsemin, kumin, kuminin và một ancaloit mới đặt tên là kaunide C21H24O5N2, độ chảy 315°C. Muối clohydrat có độ chảy 318C, chất ancaloit này có tác dụng làm yếu cơ và ức chế hồ háp.

c) Ba tác giả là Kỷ Dục Phong, Cao Di Sinh và Hoàng Diệu Tăng (1938, J Am. Chem. Soc., 60 1723) đã báo cáo rằng chất mà Triệu Thừa Cố gọi là kuminin và không có tinh thể thực ra không thuần khiết. Từ chất này đã tách ra được chất gelsemin và đính chính rằng chất kiminidin có độ chảy 299°C và có công thức là C19H25O4N2.

Tóm lại qua các tác giả trên, trong cây ngón Gelsemium elegans có gelsemin và kuminidin có tinh thể.

d) Năm 1936, F Guichard (Compte rendu du X congrès de la For. Eastern Association of tropical medicine, Hanoi, 1: 607-612) nghiên cứu từ cây lá ngón mọc ở Việt Nam và đã chiết từ lá, vỏ thân và rễ cây ấy những chất giống như những chất trong lá ngón Trung Quốc. Ông đã thấy chất kumin cả trong quả và hạt, và ông còn tìm thấy một chất có huỳnh quang đối với ngoại tím, không tan trong các axit và ghi là thuộc nhóm chất esculetin.

Nhưng dù đã nghiên cứu như vậy, việc phát hiện các chất độc trong lá ngón khi bị ngộ độc còn khó khăn, vì phản ứng đặc hiệu tiến hành trên những chất lấy được ở cơ thể người bị ngộ độc, nhất là khi chỉ ăn có 3 lá là một việc không dễ dàng.

Năm 1953, M. M. Janot ở Paris, nghiên cứu thành phần ancaloit trong từng phần những mẫu cây lá ngón hải ở miền Nam Việt Nam đã thấy trong lá có gelsemin, trong rễ có kumin và toàn thân có semperverin (như vậy là semperverin được phát hiện có trong một loài Gelsemium khác loài Gelsemium semperverens mọc ở Bắc Mỹ).

Năm 1977, Hoàng Như Tổ và cộng sự (Tài liệu học tập tham khảo Cục Quân y-II, 1977) đã tiến hành thí nghiệm lại theo như Janot nhưng đối với loài lá ngón mọc ở miền Bắc Việt Nam đã thống nhất thấy lá có gelsemin, rễ có kumin, còn chưa xác định được rõ ràng kumidin và semperverin.

Tác dụng dược lý

Trong cây lá ngón Bắc Mỹ, thành phần chủ yếu là chất gelmixin có độc tính rất mạnh, với liều thấp

trên động vật có vú, trước khi thấy hiện tượng ức chế hỗ hấp thường thấy một thời kỳ hưng phấn ngắn.

Trong cây lá ngón của ta và Trung Quốc có thành phần khác nhưng so với tác dụng của những ancaloit của cây lá ngón Bắc Mỹ thì nhiều phản giống nhau. Chất kumin và kuminin ít độc hơn, gần giống tác dụng của gelsemin, chất kuminixin rất độc, nhưng chất gelsemixin lại độc hơn nữa … Nhỏ dung dịch gelsemin và gelsemixin lên mắt thì thấy hiện tượng dân đồng tử còn kumin và kuminin không làm dẫn đồng từ.

Ngoài thành phần hóa học. Hoàng Như Tố còn kiểm tra truyền thuyết của dân gian nói “chỉ cần ăn 3 lá ngón là đủ chết” đồng thời tìm cơ chế tác dụng của lá ngón để tìm cách chống độc có hiệu quả đã đi tới một số kết luận sau

  1. Liều độc. Liều độc LD50 đối với chuột nhất trắng của rễ là 102mg/kg thể trọng (rễ chiết bằng cồn 90°), của lá là 600mg/kg (tươi chiết bằng nước), 200 mg/kg (lá khô chiết bằng nước), 150mg/kg (là khô chiết bằng cồn 70), 89mg/kg (lá khô chiết bằng cồn 90°), của ancaloit toàn phần chiết từ lá khô là 200mg/kg, trong khi đó của gelsemin là 140mg/kg và kumin thì không độc. Như vậy lá ngón có độc, nhưng không đến mức 3 lá dù chết người như dân gian thường nói.
  2. Tác dụng độc của lá ngón không đặc hiệu trên hệ thống thần kinh, gây nên co giật và chết do ngừng hô hấp trong một trạng thái thiếu oxy rõ rệt.
  3. Nghiên cứu về mặt chống độc cho phép kết luận cơ chế tác dụng của các hoạt chất cây lá ngón chủ yếu đánh vào các men hô hấp gây sự rối loạn trong tế bào dẫn tới sự thiếu oxy nghiêm trọng gây nên các hiện tượng co giật cơ và liệt. Phương hướng dùng các thuốc ngăn cản sự ức chế men và bảo trợ men đã dẫn tác giả tìm ra được tính chống độc của ATP. Khi dùng ATP để ngăn ngừa cũng như để điều trị ngộ độc bằng lá ngón đã giảm tỷ lệ chết của chuột nhất xuống từ 58% còn 25% đã cứu được tất cả các thỏ làm thí nghiệm khi đã bị ngộ độc bằng liều chết của lá ngón.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân Việt Nam không dùng cây ngón làm thuốc, chỉ giới thiệu ở đây để chúng ta biết mà tránh và có thể phát hiện khi bị ngộ độc.

Tại Bắc Mỹ và Trung Quốc, người ta dùng rễ chữa bệnh động kinh và giảm đau nhưng cũng rất ít dùng.

Chú thích:

Một vài vùng ở nước ta còn gọi một cây nữa là cây lá ngón. Sự thật cây lá ngón nói trên vào loại độc nhất. Cây lá ngón giới thiệu đây còn gọi là cây cơi hay cây lá cơi (phong dương) có tên khoa học là Pterocarya tonkinensis Dode hay Pterocarya stenoptera var. tonkinensis Franchet, thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae).

Đây là một cây nhờ, cao chừng 5-6m, lá kép lòng chim nhấn gồm 3 đến 6 đôi lá chét mọc đổi hay gần như đối, không cuống, phía cuống hơi không đều, mép lá răng cưa, nhưng lá chét phía trên to rộng hơn, bóng nhấn, những lá chết dưới có mặt trên nhấn, mặt dưới hơi có lông. Hoa cái mọc thành bông nhiều hoa mọc sít nhau, hơi có lông. Quả mọc thành bông thông xuống, dài tới 45cm hay hơn. Hạt nhỏ dài 15-17mm, rộng 2-3mm hơi có lông, có 2 cánh hẹp.

Cây này mọc hoang khắp nơi ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất vùng rừng núi, có cả ở miền Trung và ở Lào. Nhân dân thường dùng lá giã nát lấy nước. để duốc cá, có khi người ta dùng lá nấu nước nhuộm màu nâu kaki. Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!