Cây Cà Tàu (Cà Dại Trái Vàng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

458
Cây Cà Tàu (cây Cà Trái Vàng)
Cây Cà Tàu (cây Cà Trái Vàng)
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Cà Tàu trang 138, tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là cà dại trái vàng.

Tên khoa học Solanum xanthocarpum SchradWond.

Thuộc họ Cà Solanaceae.

Mô tả cây

Cây sống hàng năm, cao khoảng 0,7-km hay hơn. Toàn thân và lá có màu xanh lục nhạt. Phiến lá to rộng gần giống các loại cà cho quả ăn được, mép lá phân thùy không đều. Đặc biệt toàn thân cây, cuống và gân lá cả hai phía trên dưới đều có nhiều gai nhọn sắc. Mặt trên và dưới của lá đều có một lớp mỏng lông mịn. Cụm hoa tán ngoài ; nách lá mọc thành chùm từ 3-5 cái, cánh hoa , màu trắng hoặc xanh lục nhạt 5 cánh rời hình sao rộng 2cm. Tiểu nhị vàng, bao phấn dài 8- 9cm. Quả không có lông tròn, trắng có bớt rằn xanh, khi chín có màu vàng tươi đường kính 2,5- 3cm. Mùa quả quanh năm nhưng nhiều quả nhất vào mùa khô (tháng 11, 12) ở Đà lạt (Lâm Đồng).

Cây Cà Tàu (cây Cà Trái Vàng)
Cây Cà Tàu (cây Cà Trái Vàng)

Phân bổ và thu hái chế biến

Cây mọc hoang dại rất nhiều ở tỉnh Lâm đồng (Đà Lạt, Đức Trọng, Sơn dương…), Đắc Lắc (Buôn Mê Thuộc), Gia Lai-Kon Tum. Cây có khả năng chịu khô hạn rất khỏe, ưa ánh sáng nhiều nhưng cũng có thể chịu được râm mát, có khả năng mọc tranh chấp với cỏ dại. Vào mùa khô (11 đến 4 và 5) cây rụng lá nhiều, để lại những cành rất sai quả, thuận lợi cho việc thu hái (vì khối lượng gai rụng theo lá, dễ hái, nắng nhiều).

Người ta dùng toàn cây (thân, lá và quả) phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học

Năm 1939 Rochemeyer H. (Angew. Chem. 52 (20), 374) đã chiết từ cây một gluzit có tên solasodin.

Năm 1980 (Dược học 5, 1980) Hoàng Đại Cử đã định lượng tro trong lá và phần non của cây đang có nhiều quả xanh và chín có 0,05 phần trăm solasodin. Trong quả xanh (gồm thịt quả và hạt) có 2,36%. Trong quả chín vàng (gồm thịt quả và hạt) có 2,20%.

Tác giả còn chiết từ hỗn hợp gồm quả xanh già, chín vàng và hạt phơi sấy khô dòn được 1.40% solasodin đã tinh chế.

Công dụng và liều dùng

Ở nước ta hầu như chưa thấy sử dụng làm thuốc. Nhưng ở nhiều nước như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, châu Úc người ta dùng toàn cây chữa ho (long đờm), thông tiểu, chữa hen, sốt. Lá, thân và quả dùng làm thuốc bổ đắng chữa phù. Hạt đốt xông khói chữa sâu răng.

Hiện nay có thể dùng làm nguyên liệu chiết solasodin.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!