Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Bạch Biển Đậu trang 389-391 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là Đậu Ván Trắng, Đậu Bạch Biển, Biển Đậu, Bạch Đậu.
Tên khoa học Dolichos Lablab L. Lablab vulgaris Sav. L., Dolichos albus Lour.
Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Bạch biển đậu (Semen Dolichoris) là hạt của cây đậu ván trắng đã chín và phơi khô. Còn có tên nga mi đậu, bạch mai đậu.
Mô tả cây
Đậu ván trắng là một loại dây leo, sống 1-3 năm, có thể leo dài tới 5m hay hơn. Thân leo màu xanh có góc, hơi có rãnh, trên mép của hạt, kéo dài chiếm 1/3-1/2 chu vi có lòng thưa dài, mềm. Lá mọc cách, kép, mỗi lá có 3 lá chét hình trứng, phía dưới hơi bè ra hình quả trầm, lá chét dài 5-10cm, rộng 4-8cm, cuống lá chét giữa dài 2-3,5cm, cuống lá chét 2 bên dài chừng 5mm. Cuống chung dài 4-13cm, phần cuối hơi phình ra. Hoa mọc thành chùm, ở ngọn cành và kẽ lá, cuống cụm hoa dài 6-15cm, mang hoa ở 1/3-1/2 trên. Mỗi mẫu có 2-3 hoa hình bướm màu tím nhạt, cuống của từng hoa dài 2-3cm. Đài hoa hình ống, có 5 răng đều nhau hình tam giác. Tràng 5 cánh, tiền khai hoa cờ 10 nhị xếp thành 2 vòng, 1 nhị đơn độc, 9 nhị khác dính vào nhau thành màng bao quanh nhụy 1 lá noãn. Quả giáp màu xanh nhạt, khi chín có màu vàng nhạt, dài 5-9cm, rộng 1,5- 2,5cm, hơi cong về một phía giống hình lưỡi liềm, trên đầu có mỏ nhọn cong lên phía lưng quả, hai mép sần sùi, trong quả chứa 2-4 hạt hình trứng hay hình thận, không cân đối, màu trắng ngà, dài 8- 12mm, rộng 6-8mm, dày 2-4mm, rốn hạt hình trái xoan, dài 3mm, màu trắng, ngay sát rốn là lỗ noãn màu nâu thẫm. Từ rốn có một mồng màu trắng, nổi hẳn lên một phía hạt đậu thành hình lưỡi liềm, rộng 3-4mm, trên mỏng trắng có 2 đường rãnh chia mồng thành 3 phần. Mùa hoa: Cuối hạ đầu thu
Phân bố, thu hái và chế biến
Đậu ván được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy quả non ăn, quả già lấy hạt làm thuốc.
Muốn hái hạt làm thuốc thì vào tháng 9-10, quả chín già, hái về, đập lấy hạt, phơi khô là được.
Từ bạch biển đậu, người ta chế ra các vị thuốc như: Biến đậu y (Testa Dolichoris) là vỏ hạt bạch biển đậu, biển đậu nhân (nhân hạt bạch biển đậu, chế bằng cách ngâm bạch biển đậu vào nước cho vỏ phồng lên, đãi lấy nhân phơi riêng, vỏ phơi khô riêng), bạch biển đậu sao (nhân biển đậu cho vào nồi gang hay chảo sao cho đến khi có màu vàng đen, lấy ra để nguội mà dùng).
Thành phần hóa học
Trong bạch biển đậu có chừng 22,70% chất protein; 1.8% chất béo; 57% cacbon hydrat; 0,046% canxi; 0,052% photpho; 0,001% chất sắt.
Ngoài ra còn men tyrosinaza, vitamin A, B, C và nhiều vitamin B, axit xyanhydric.
Trong protein của bạch biển đậu, người ta thấy có nhiều axit amin như trytophan, acginin, lyzin và tyrozin.
Trong bạch biển đậu có protit, vitamin B, và C, caroten, đường sacaroza, glucoza, stachyoza, maltoza và raffinoza (C. A., 1968, 68, 66373 i) ngoài ra còn axit L- pipecolic và phytoagglutinin (C. A., 1967, 66, 830781 và 1969, 71, 28825n).
Tác dụng dược lý
Có tác dụng chống bị ngộ độc thức ăn mà sinh ra nôn mửa, viêm dạ dày và ruột cấp tính.
Công dụng và liều dùng
Chỉ mới thấy dùng làm thuốc trong phạm vi nhân dân. Theo lý luận đông y, bạch biển đậu có vị ngọt, hơi ổn, không độc, vào hai kinh tỳ và vị chủ trị hòa trung, hạ khí, dùng làm thuốc bổ tỳ vị, chỉ tả lỵ phiền khát chữa các chứng đau bụng, xích bạch đới, giải độc, trúng độc do nhân ngôn. Một tác giả đời Đường còn nói ăn bạch biển đậu bổ ngũ tạng, chữa nôn ọe, ăn luôn tóc không bạc.
Ngày dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.
Đơn thuốc có Bạch Biển Đậu dùng trong nhân dân
Hương nhu hoàn dùng chữa đau bụng, không tiêu: Hương nhu (lá) 80g, bạch biển đậu sao bỏ vỏ, hậu phác tẩm nước gừng sao, mỗi vị 40g. Tán nhỏ làm thành viên, mỗi viên nặng chừng 1g. Mỗi lần dùng 1 đến 2 viên. Dùng nước nóng chiêu thuốc.
Có thể sắc uống đơn thuốc sau đây: Hương nhu 4g, bạch biển đậu 4g, nước 200ml, sắc còn 100ml, chia 3 lần uống trong ngày.
Đơn thuốc chữa xích bạch đới:
Bạch biển đậu sao vàng tán nhỏ, mỗi ngày dùng 4 đến 8g bột này.
Chữa trúng độc:
Bạch biển đậu 20g giã sống thêm nước, vắt lấy nước cho uống.
Đái ra máu:
Lá đậu ván sao vàng sắc uống. Ngày uống 20- 30g lá tươi.
Chú thích:
Ngoài đậu ván trắng, còn có thứ đậu ván cho hạt đen hay đỏ nhưng không thấy dùng làm thuốc,
Ngoài vỏ và hạt đậu ván, người ta còn dùng hoa đậu ván và lá đậu ván giã đắp lên vết rắn cắn. Nhưng hạt đậu ván trắng hay được dùng hơn.