Xương Hổ – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

338
Xương Hổ
Xương Hổ
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Xương Hổ trang 978 – 982 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là đại trùng cốt, lão hổ cốt, hổ cốt. Tên khoa học Panthera tigris L..

Thuộc họ Mèo Felidae.

Hổ cốt (Os Tigris) là toàn bộ xương của con hổ. Người ta có thể dùng xương hổ để sắc uống hay ngâm rượu (Trung Quốc) hoặc nấu thành cao (Cao hổ cốt, hổ cối giao) rồi dùng cao này để chế thành rượu.

Mô tả con vật

Trong họ Mèo, con hổ là loài động vật to khỏe nhất. Đấu to tròn, cổ ngắn, tai nhỏ, ngắn; 4 chân to khỏe, mỏng rất sắc và nhọn, đuôi dài bằng nửa thân. Một con hổ trung bình nặng 150. 200kg, thân dài 1.5m 2m đuôi dài 1m. Hồ đồng bắc Trung Quốc có thể nặng tới 300kg. Da hồ màu vàng, có vằn đen, phía bụng và phía trong chân có lòng trắng,

Hổ thường sống một mình ở những vùng rừng núi nhiều cỏ tranh. Tuy nhiên trong thời kỳ giao cấu hoặc thời kỳ nuôi con, con đực con cái và hồ con thường sống quay quán với nhau. Chỗ ở của nó không cố định. Ban ngày nằm phục tại một chỗ, ban đêm mới hoạt động tìm ăn. Thức ăn của nó là hươu nai, sơn dương hay loài ăn cỏ khác như lợn rừng, đặc biệt có thể tìm bắt những súc vật nuôi trong nhà như chó, trâu, bò, lợn, có khi ăn cả người. Mỗi con có thể đẻ 2-4 con; sau 3-4 năm thì trưởng thành.

Con hổ có giá trị kinh tế rất lớn, thịt hổ ăn ngon và bổ, da hổ thuộc để trang trí hay nhồi thành con hổ; xương hổ dùng để làm thuốc.

Phân bố, săn bắt, chế biến xương hổ và cao hổ cốt

Tại miền rừng núi nước ta không thấy mấy nơi không có hổ nhưng nổi tiếng có hổ Hòa Bình, Hà Tây. Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên và miền núi Trường Sơn, Trung Bộ

Săn hổ có thể dùng bẫy bắt sống hay dùng tên độc, súng sản. Mùa săn quanh năm. Tùy theo con to con nhỏ mà bộ xương to nhỏ: Nếu hổ nhỏ quá vừa ít thịt, xương nấu cao hiệu suất và phẩm chất cũng kém hơn. Trung bình một bộ xương hổ nặng 10-12kg, có thể tới 15-16kg. con nhỏ chỉ cho 4-5kg. Căn cứ vào sức nặng của một bộ xương, người ta xác định giá trị và phẩm chất của cao và do đó giá mua có khác, ví dụ theo thời giá năm 1960, một con hổ cho bộ xương nặng 2-5kg chỉ mua với giá 25 đóng 1kg xương, nếu nặng 5-7kg, giá mua lên tới 50 đồng một kg, và nếu bộ xương nặng trên 7kg coi là tốt trị giá tới 65 đồng 1kg. Bộ xương hổ nặng dưới 4kg được coi vào loại xấu. 

Toàn bộ xương hồ đều tốt, nhưng xương 4 chân và xương đầu được coi quý hơn cả, đặc biệt xương cánh chặn trước được coi là không thể thiếu được, một là vì tỷ lệ những xương đó chiếm phần chủ yếu, hai là vì xương cánh chân trước (bumerus) có một lỗ hổng đặc biệt gọi là mãi phương có thể dùng để phân biệt thực già. Ví dụ trong một bộ xương hổ nặng hơn 6kg thì: Xương đầu nặng 1kg chiếm 15% toàn bộ trong lượng bộ xương. Xương 4 chân nặng 3,390kg chiếm 52%. Xung sống (kể cả xương có năng 0,90kg chiếm 14%. Xương sườn (13 đòi) nặng 0,355kg chiếm 5,5% (không có xương ức). Xương chịu nặng 0.355kg (cả 2 mảnh) chiếm 55%. Xương bả vai nặng 0,260kg chiếm 4%. Xương đuổi nặng 0,146kg (kể cả xương cùng) chiếm 2,2% 2 xương bánh chè năng 0,039kg chiếm 0,45%. Người ta dùng nguyên xương hỗ đã lọc bỏ hết gần thịt hoặc dùng xương đó nếu thành cao hổ cốt mà dùng.

Cách nấu cao hổ cốt

Xương hồ toàn bộ, số lượng tùy theo có nhiều ít. Nước vừa đủ để nấu theo kỹ thuật giới thiệu ở sau đây:

Việc nấu cao hổ cốt trước đây thường chỉ nấu ở miền rừng núi vì ở miền đồng bằng người ta mê tín cho rằng nấu cao hổ trong nhà thì sẽ có nhiều sự không may. Hiện nay các xí nghiệp đã có dịp nấu như thường.

Tại miền núi cũng như theo kinh nghiệm trong nhân dân ít khi người ta chỉ dùng xương hồ, mà phối hợp với xương của nhiều con vật khác và các vị thuốc thảo mộc khác như thiên niên kiện. địa liền v.v…

Người ta cho rằng khi nấu tốt nhất kiếm đủ 5 bộ xương hố, một bộ xương khi, một bộ xương sơn dương (một loại dẻ rừng) vì xương hổ là vị chủ yếu (quân) có kèm theo hai vị thần nghĩa là có vua có quan.

Nếu xương vừa lây ở con hổ ra thì cần đem cạo hết thịt rồi cho vào một cái đỏ lớn bằng tre thật chắc: Đem ngâm trong một dòng suối nước chảy trong vòng 15-20 hôm. Trong thời gian này thịt còn sót lại sẽ thổi rửa ra và trôi theo dòng nước. Sau đó người ta treo đỏ xương lên cành cây cho khô. Trước đây người ta cho làm như vậy để “khu phong” nghĩa là loại bỏ các khí xấu. 

Thực tế chỉ là loại bỏ mùi hôi thối của thịt bị nữa nát khi ngâm trong suối. Thời gian cũng kéo dài chừng 15-20 ngày.

Chứ như vậy xương sẽ sạch không có mùi hôi. Lấy chày đập thành mảnh nhỏ để để rửa cho sạch hết uy. Ngâm trong 24 giờ (một ngày một đêm) vào nước luộc rau cải (loại rau ta vẫn luộc un hay muối dưa) chưa rõ rau cải cho vào đây làm gì.

Ngày hôm sau lại vừa xưng bằng nước tối lại ngâm xương vào tươi có ngâm gừng (có lẽ để cho đỡ mùi tanh)

Cuối cùng tây ra, cho vào thùng đợi cho khô mới đem ra cho vào nói đúng to, đổ nước vào cho đủ ngập chừng vài centimet rồi nấu nhiều lên như nấu cao ban long (xem vị cao ban long).

Hiệu suất trung bình là 100kg xương cho chừng 30kg cao. Vì xương hồ hiếm và đặt cho nên giá thành của cao hổ cốt thường rất cao, tới 40-600 đồng 1kg (thời giá năm 1960).

Trên đây chỉ mới là phương pháp nấu cao hồ trong nhân dân. Vì không có sách nào quy định. xương hố lại hiểm cho nên mỗi nơi nấu có khác nhau, ví dụ có nơi lại ngâm xương bằng nước lá thau, là trầu không, có nơi nấu lần với nhiều thứ xương khác: là cô người săn được hổ nếu dùng riêng còn nấu xương khác bán giả làm cao hổ. Việc xác định còn gặp rất nhiều khó khăn.

Tại nước ta ít khi thấy dùng xương hổ làm thuốc, nhưng tại Trung Quốc người ta còn dùng xương 4 chân, xương đầu và xương cổ của hổ. Những loại xương màu vàng là tốt. Khi dùng lấy chày đập vỡ, cạo bỏ tùy, đó bằng rượu hay bàng dâm. Rồi nướng trên than thành màu vàng nhạt dùng để sắc uống hay dùng ngay xương này để ngâm rượu.

Thành phần hóa học

Trong xương hổ có canxi photphat và protit. Trong cao hổ cốt nguyên chất có 14,93 đến 16,66% nitơ toàn phần, 0,58-0,74% axit amin, 19.88-26,16% độ ẩm, 2,6% độ trò, clo tính bang axit clohydric 0,67%, asen 5 phần triều, canxi 0,08%, photpho tính bảng axit photphoric (theo số liệu của Lê Văn Trinh và Trần Trinh Thục. Xí nghiệp dược phẩm 1-Tập san được học 4-1963). 

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu sâu hơn.

Xương Hổ
Xương Hổ

Công dụng và liều dùng

Xương hổ và cao hổ cốt là một vị thuốc rất được tín nhiệm trong nhân dân, chủ yếu dùng trong những bệnh đau xương, từ thấp đi lại khó khăn, đau nhức. Còn dùng trong những bệnh cảm gió, điên cuồng. Có khi dùng làm thuốc bổ, nhưng thường hay dùng trong bệnh tê thấp nhức mỏi. Việc xác định giá trị chữa bệnh gặp khó khăn vì ít khi người ta chỉ dùng vùng xương hổ mà thường dùng nó phối hợp với nhiều vị thuốc khác. Xương hổ lại hiếm, cao hồ cùng thưởng nấu lẫn với xương nhiều động vật khác.

Theo tài liệu có, xương hố có vị cay tính hơn ăn, vào 2 kinh can và thận. Có tác dụng khu phong làm hết đau, mạnh gần cứu, trấn kinh. Dùng chữa gân cốt đau nhức, đi lại khó khăn. chân tay co quắp. Nếu hỏi hợp là phiền thì nên dùng xương đầu, chân tay đau nhức nên dùng xương trán. Những người huyết hư hỏa thịnh không dùng được.

Liều dùng trung bình của xương là 10-301 dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay ngâm rau. Nếu dùng cao mỗi ngày dùng 4-6g hay hơn.

Đơn thuốc có xương hổ và cao hổ cốt

Có nhiều cách chế biến khác nhau: Theo kinh nghiệm cổ truyền ghi lại trong “Hiện đại thực dụng trung dược” của Diệp Quyết Tuyến: Xương hổ sao vàng tán nhỏ 200g, rượu tốt 700ml. Ngâm trong vòng 10-15 ngày lọc lấy rượu. Thêm vào bà 300ml rượu nữa. Lại ngâm 10 ngày nữa. Lọc, trộn đều hai mẻ rượu đó với nhau, thêm rượu nữa vào cho đủ 100.

Ngày uống 4 lần. Mỗi lần 10-15 bình rượu này, uống sau bữa cơm để chữa bệnh yếu xương, viêm xương.

  • Cao hổ cốt 40-60g. Ngâm vào một lít rượu. Trước khi ăn cơm hâm nóng mà uống mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 10-15ml.
  • Cao hổ cốt 4-6g, thiên niên kiện 10g, cốt toàn bởi 102, đỗ trọng 10g, rượu tốt 1 lít. Ngâm trong 10-15 ngày. Lọc lấy rượu để uống. Ngày 2 lần, mỗi lần 15ml trước bữa ăn.
  • Rượu hổ cốt ghi trong Dược điển Trung Quốc 1963 có hai loại: Hồ cốt tửu và hồ cốt mặc qua tim. Trong 1 lát hố cốt tửu chỉ có hơn 1g có hổ cốt trong hổ cốt mộc qua từng cũng vậy. Ngoài ra hồ cốt tửu có tới 45 vị thuốc khác Hổ cốt mộc qua tàu ngầm thêm với 13 vị thuốc khác. Xem như vậy, xương hổ và cao họ cởi chỉ chiếm lượng rất nhỏ trong các thuốc có xương và cao hồ (chi tiết các đơn rượu này. xem ở vị một qua
  • Một hình thức dùng cao bởi cái làm thuốc bởi dưỡng. Làm thịt một con gà giò vừa một người ăn. Mổ bỏ ruột. Cho vào bùng con gà này một miếng cao hổ cốt nặng khoảng 10-20g. Rồi đạt con gà có cao hổ cốt trong bụng vào một cái liền sứ hay ca tráng men có nập. Thêm vào đó chừng một chén rượu nhỏ.

Không cho một tí nước nào cả. Đặt tất cả vào nói nước để đun cách thủy. Nước trong thịt của gà bốc lên sẽ làm chín con gà và hòa tan cả cao và các chất trong thịt gà. Đun cho đến khi còn git chin dữ. Chỉ lấy chút nước tiết ra mà cho người yếu ăn. Có thể ăn cả thịt nhưng thịt rất bã, không ngon. 

Cách dùng cao hổ cốt này thường dùng cho những người mới ốm dậy ăn cho chống lại sức.

Có người nói ăn cao hổ cốt khi còn ít tuổi. người sẽ nứt ra, nhưng đó chỉ là một tin không có cơ sở.

Chú thích:

Ngoài cao hổ cốt và cao ban long, trong nhân dân còn dùng xương của những con vật khác để nấu cao làm thuốc bổ như xương khi (chi dùng xưởng) hoặc toàn bộ cả xương và thịt gọi là cao khi toàn tính, xương gấu (Selanarios thibetanus Cuvier và Ursus artos L. thuộc họ Ursidae), xương con sơn dương, xương con báo Phanthera pardus (có lòng với những đốm đen) hoặc báo Panthera marmolata (có đuôi rất dài) hoặc báo Panthera malas (có lông đen tuyền) (Hình 730).

Tính chất và công dụng cũng gần như nhau, nhưng thường cao khi hay dùng cho phụ nữ. cao hổ cốt dùng trong bệnh tê thấp, đau xương còn những cao khác thường coi là những vị thuốc bổ toàn thân. Hoạt chất khác chưa rõ nhưng đây là một nguồn đạm và axit amin rất đáng chú ý của các vị thuốc nhân dân.

Dược sĩ Trần Lâm Huyến có cho phân tích một số cao đó kết quả như sau (trích trong bài Cao động vật Dược học, 4-1963)

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!