Mã Đề (Xa Tiền, Mã Đề Thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

292
Mã Đề
Mã Đề
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Mã Đề trang 215-217 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Mã Đề Thảo, Xa Tiền, Nhà Én, Dứt (Thái) Su Ma (Thổ).

Tên khoa học Plantago asiatica L.(Plantago major L. var. asiatica Decaisne).

Thuộc họ Mã đề Plantaginaceae.

Theo thuyết của Lục cơ (cổ) thì loài cây này hay mọc ở vết chân ngựa kéo xe nên gọi tên (mã là ngựa, đẻ là móng chân).

Cây mã để cho các vị thuốc có tên sau đây:

  1. Xa tiền tử. Semen Plantaginis-là hạt phơi hay sấy khô.
  2. Mã để thảo: Herba plantaginis-là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô.
  3. Lá mã để: Folium plantaginis-là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.

Mô tả cây

Mã đề là loại cỏ sống lâu năm, thân ngắn, là mọc thành cụm ở gốc, cuống dài, phiến lá hình thia hay hình trứng, có gần dọc theo sống lá và đồng quy ở ngọn và gốc lá. Hoa mọc thành bỏng, có cán dài, xuất phát từ kẽ lá. Hoa đều, lưỡng tính, đài 4, xếp chéo, hơi đính nhau ở gốc, tràng màu nâu tồn tại, gồm 4 thùy nằm xen kẽ ở giữa các lá đài. Nhị 4 chỉ nhị mảnh, dài, 2 lá noãn chứa nhiều tiểu noãn. Quả hộp trong chứa nhiều hạt màu nâu đen bóng

Mã Đề - Plantago asiatica
Mã Đề – Plantago asiatica

Phân bố, thu hái và chế biến

Mã đế mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi ở khắp nước ta. Muốn bảo đảm nhu cầu cần đặt vấn đề trồng. Trồng bằng hạt chọn ở những cây to khỏe, hạt mẫm đen. Thường trồng vào mùa xuân và mùa thu nhưng tốt nhất vào mùa thu. Mã để ưa đất tốt, ẩm vừa phải, đất tốt cây rất to.

Vào tháng 7-8 quả chín thì hái toàn cây đưa về phơi hay sấy khô, loại bỏ tạp chất. Muốn lấy hạt thì đập và giũ lấy hạt, rây qua rây rồi phơi khô. Không phải chế biến gì đặc biệt. Khi dùng lá, có thể hái gần như quanh năm, có thể dùng tươi hay khổ.

Thành phần hóa học

Toàn cây chứa một glucozit gọi là aucubin hay rinantin C,H,O, còn gọi là aucubozit. Aucubin kết tinh với một phân tử nước, đun nóng ở 120’C thì mất nước. Độ chảy 180°C. Tan trong nước (36,5% nước 20’C), tan trong cổn 95° (1,1%), trong cồn metylic (13,8%), không tan trong ête và clorofoc. (a)D: -1665 (khan) hay -179 1. Axit loãng hay men emunsin thủy phân cho glucoza và aucubigenin C,H,O.

Có tác giả còn nói có plantagin nhưng chưa xác định lại được.

Trong lá có chất nhảy, chất đắng, carotin, vi- tamin C, vitamin K, yếu tố T (có người gọi là vitamin T), axit xitric.

Trong hạt chứa nhiều chất nhầy, axit plantenolic, adenin và cholin.

Tác dụng dược lý 

Tác dụng lợi tiểu

Uống nước sắc mã đề, lượng nước tiểu tăng. trong nước tiểu lượng urê, axit uric và muối đều tăng (thí nghiệm trên thỏ, chó và người ).

Tác dụng chữa họ

Nước sắc mã để có tác dụng trừ đờm, tác dụng này kéo dài 6-7giờ, mạnh nhất sau khi uống 3 đến 6 giờ. Kết quả chữa họ, trừ đờm trên lâm sàng phù hợp với kết quả thí nghiệm trong phòng thí nghiệm. Tác dụng chữa ho này không trở ngại đến sự tiêu hóa và cũng không có tác dụng phá huyết. Cho nên tác dụng chữa họ của mã đề không giống những thuốc chữa họ chứa saponozit, nhưng tác dụng chữa ho giống nhau. Có điều cần chú ý là trẻ con họ dùng thuốc mã để hay đái nhiều, có thể đái dầm.

Chất plantagin có tác dụng hưng phấn thần kinh bài tiết, làm tăng sự bài tiết niêm dịch của phế quản và cũng của ống tiêu hóa; tác dụng trên trung khu hô hấp làm cho hơi thở sâu và từ từ.

Tác dụng kháng sinh

Nước sắc mã đề (toàn cây 1ml=1g mã đề) có tác dụng ức chế đối với một số vi trùng bệnh ngoài da (theo Trung hoa bì phu tạp chí, 1957, 4: 286-292).

Mã để tán bột chế thành thuốc dầu đắp lên mụn nhọt đỡ nung mủ, đỡ bị viêm tấy (R. K. Aliev, 1945, Pharmacia).

Để lá mã để trong tối và lạnh kiểu chế thuốc Filatov trong vài ngày có thể sinh chất biostimulin, chế thành thuốc tiêm, tiêm dưới da có thể chữa các bệnh mụn nhọt, viêm cổ họng, mắt.

Độc tính

Cho uống aucubin không thấy có triệu chứng độc (Nhật được chí, 1992).

Tác dụng khác

Trên lâm sàng, mã đề còn được dùng chữa cao huyết áp có kết quả, ngày hải 20-30g cây mã đề tươi, non, thêm nước vào sắc kỹ chia 3 lần uống trong ngày theo (Thượng Hải trung y dugo tap chi 3, 1959: 39-40).

Chữa lỵ cấp tính và mãn tính: Lá mã đề tươi chế thành thuốc sắc 100%, ngày uống 3 lần, mỗi lần 60-120ml nước sắc 100% nói trên. Có thể uống tới 200ml mỗi lần. Thời gian điều trị 7-10 ngày, có thể kéo dài 1 tháng (Trung hoa nội khoa tạp chí, 1960, 8, 4: 351-353).

Công dụng và liều dùng

Từ thời cổ, mã để được nhân dân ta và Trung Quốc dùng làm thuốc. Theo sách cổ, mã đề tính hàn, vị ngọt, không độc, vào 3 kinh can, thận và tiểu trường. Tác dụng lợi tiểu, thanh phế, can, phong nhiệt, thẩm bàng quang thấp khí, chữa đẻ khó, họ, trừ đờm, chỉ tả (cầm đi ngoài), sáng mắt, thuốc bổ.

Trên thực tế, mã để được dùng làm thuốc thông tiểu, chữa ho lâu ngày, viêm khí quản, tả lỵ, mắt đỏ đau. Ngày dùng 6 đến 12 g dưới dạng thuốc sắc. Hay dùng làm thuốc họ cho trẻ em, nhưng nhược điểm của loại thuốc này là gây cho trẻ đái dầm.

Trong sách cổ có nói: Phàm những người đi tiểu quá nhiều, đại tiện táo, không thấp nhiệt, thận hư, nội thương dương khí hạ giảng thì không nên dùng.

Dùng ngoài: Nhân dân ta và nhân dân Liên Xô cũ dùng lá tươi giã nát đắp mụn nhọt, làm mụn nhọt chóng vỡ và mau lành. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Đơn thuốc có mã đề

Thuốc lợi tiểu: Xa tiền tử (hạt-na Be) 10g, cam thảo 2g, nước 600ml (3 bát). Sắc và giữ sôi trong nửa giờ. Chia 3 lần uống trong ngày.

Chữa họ tiêu đờm: Xa tiền thảo (cây mã đề) 10g, cam thảo 2g,cát cánh 2g, nước 400ml. Đun sôi trong nửa giờ. Chia 3 lần uống trong ngày. Nếu không có cam thảo, thì có thể thay bằng đường cho đủ ngọt mà uống.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!