Hoàng Tinh – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

376
Hoàng Tinh
Hoàng Tinh
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Hoàng Tinh trang 841 – 843 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là củ cây cơm nếp (Lào Cai) woòng sính, kim thị Hoàng Tinh, cứu hoang thảo, koesd ka sat pa (Mèo Xiêng Khoảng).

Tên khoa học Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl.

Thuộc họ hành tỏi Liliaceae.

Hoàng Tinh (Rhizoma Polygonati) là thân rễ phơi hay sấy khô hoặc chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây cơm nếp hay cây Hoàng Tinh Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl và các cây cùng chi khác loài như Polygonatum sibiricum Redoute, Polygonatum multiflorum L… đều thuộc họ Hành Alliaceae.

Không nên nhầm tên cây Hoàng Tinh này với cây Hoàng Tinh hay cây củ dong cho tinh bột vẫn thấy luộc bán ở nhiều nơi. Cây này có tên khoa học Maranta arundinacea L. thuộc họ Dong Marantaceae.

Người xưa cho rằng vì vị thuốc có màu vàng (hoàng = vàng) do tinh khí của đất sinh ra, cho nên có tên Hoàng Tinh.

Mô tả cây

Cây loại cỏ sống lâu năm, thân rễ mọc ngang, có khi phân nhánh, mẫm lên thành củ màu vàng trắng, hơi dẹt nên có sẹo lõm là vết thân còn sót lại, đường kính vết thân có thể đạt tới 2cm. Chiều dài củ có thể tới 30-35cm, rộng tới 6-7cm và dày tới 2-3cm. Thần mọc đứng nhấn bóng, cao 50-80cm. Lá không cuống mọc vòng trong 4-5 là một. Phiến lá hình mác dài 7-12cm, rộng 5- 12 mm, đầu lá nhọn và quân. Hoa mọc ở kẻ là rũ xuống, cuống hoa dài 1,5-2cm, mỗi cuống mang hai hoa hình ống dài 8-15mm màu tím đỏ. Mùa hoa ở Sapa (Lào Cai) vào tháng 3-4. Quả mọng, hình cầu đường kính 7-10mm, khi chín có màu tím đen.

Hoàng Tinh
Hoàng Tinh

Phân bố thu hái và chế biến

Mọc hoang ở những nơi rừng ẩm, đất nhiều mùn trên các núi có lẫn đá xanh, ở các tỉnh miền Bắc. Quanh thị trấn Sapa có nhiều.

Cho đến nay, ta vẫn dùng những cây mọc hoang, chưa ai chú ý trong.

Muốn trồng, đào lấy những mẫu thân rễ có ít nhất 2 đốt đem về trồng ở nơi đất tốt và mát.

Thường sau 5 năm mới thu hoạch. Hải thần rễ vào mùa thu hoặc mùa xuân, tốt nhất vào mùa thu vì thân rễ chứa ít nước. có những nơi thu hái gần quanh năm từ tháng 4 đến tháng 10.

Có nhiều cách chế biến:

Đào củ (thân rễ) cắt bỏ thân và rễ con, rửa sạch, thêm nước vào, đun cạn đem ra phơi, lại cho vào nước đun cạn rồi lại đem ra phơi, làm như vậy cho đến khi củ mềm, mặt ngoài và trong có màu đen là được. Vị thuốc chẽ như vậy gọi là “thục Hoàng Tinh”. Do tên này nên có người nhằm thực Hoàng Tinh với thục địa, dùng và bán thay thục địa. Nếu không đun ăn rất ngứa (thục là nấu, hoàng là tinh nấu).

Thành phần hóa học

Chưa rõ hoạt chất là gì. Chỉ mới biết trong củ Hoàng Tinh có chất nhầy, tinh bột và đường.

Dịch chiết bằng ête từ củ Hoàng Tinh cho với các thuốc thử ancaloit phản ứng dương tính.

Tác dụng dược lý

Năm 1927-1928, Mãn Bình Kỳ đã nghiên cứu chế thuốc bằng Hoàng Tinh Polygonatum multiflorum cho thỏ uống thì thấy lượng huyết đường bắt đầu bình thường, sau đó tăng cao và cuối cùng lại hạ xuống. Hiện tượng lượng huyết đường tăng cao. này không do chất đường có trong Hoàng Tinh gây ra.

Lượng đường tăng theo tỷ lệ thuận với lượng Hoàng Tinh cho uống.

Đối với hiện tượng huyết đường do clohydrat adrenalin gây ra, tác dụng ức chế của Hoàng Tinh lại càng rõ rệt.

Mẫn Bình Kỳ còn dùng thuốc chế từ Hoàng Tinh tiêm vào tĩnh mạch thỏ, thì thấy tức thời huyết áp hạ xuống, tần số hô hấp lúc đầu tạm thời tăng lên, sau đó dẫn dán chậm lại và yêu đi.

Liều lớn gây tê liệt trung khu hô hấp làm cho hô hấp ngừng lại mà chết.

Công dụng và liều dùng

Hoàng Tinh là một vị thuốc mới được dùng trong phạm vi nhân dân. Theo sách cổ: “Hoàng Tinh nhuận phổi sinh tân dịch, đầy tinh tủy, trị lao thương, làm thuốc bổ ngũ lao, mạnh gân cốt, ích tỳ vị”.

Trường Sơn Lối (một thầy thuốc thời cổ) nói thêm “Công dụng của Hoàng Tinh cũng như thực địa chuyên bố huyết, bổ âm, nuôi tỳ vị, những người nào đờm thấp, yếu dạ không nên ăn.”

Ngày dùng 12-20g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị khác.

Theo tài liệu cổ Hoàng Tinh có vị ngọt, tính bình vào 3 kinh tỳ, phế và vị. Có tác dụng bổ trĩ, nhuận phế, sinh tân. Dùng chữa tỳ vị hư nhược. phế hư sinh họ, tiêu khát. Người tỳ hư thấp thịnh, ăn không tiêu không dùng được.

Có nơi người là ăn thay gạo khi mất mùa do đó có tên là cứu hoang thảo (cây chống đói).

Đơn thuốc có Hoàng Tinh

Đơn thuốc bổ dùng cho người yêu, họ, lao lực:

Hoàng Tinh 15g. ý đi 10g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia làm 3 ăn uống trong ngày.

Những vị thuốc cùng tên.

  1. Ngoài vị Hoàng Tinh lá nhỏ hẹp giới thiệu ở trên, tại Việt Nam và Trung Quốc còn dùng loại củ Hoàng Tinh hai ở những cây như Polygonatum multiflorum L., Polygonatum macropodium Turcz, Polygonatum filipes Merr.

Những cây này nói chung chưa được nghiên cứu.

  1. Cả Hoàng Tinh hay củ dong vẫn bán dưới hình thức luộc ở các chợ, ở các phố hoặc bán sống để về giả bột mang tên bột Hoàng Tinh, một loại a-rô-rút (Arrow root). Cây này có tên khoa học Maranta arundinacea.

Trong củ (thân rễ) có chứa chừng 16% tinh bột là lượng tối đa sau 12 tháng tổng. Nếu để chậm không đào, lượng tinh bột sẽ giảm xuống 15% (sau 15 tháng), hoặc 10% sau 19-20 tháng

Củ bột Hoàng Tinh này không được dùng làm thuốc, mà chỉ làm thực phẩm hoặc dùng làm tá được.

  1. Một số loại Hoàng Tinh dễ nhầm với vị ngọc trúc.
Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!