Cây Vừng (Mè, Chi Ma, Hổ Ma) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

277
Vừng
Vừng
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Vừng trang 898-900 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Mè, Du Tử Miêu, Cự Thắng Tử, Chi Ma, Bắc Chi Ma, Hổ Ma.

Tên khoa học Sesamum orientale L. Sesamum indicum Dc. Sesamum lutrum Retz.

Thuộc họ Vùng Pedaliaceae.

Vừng và vừng đen (Semen Sesami) là vừng của dân tộc Khương Hồ (tên cổ người Trung Quốc gọi nước Ấn Độ) do đó có tên hồ ma là vừng của người Hổ (Ma là vừng).

Mô tả cây

Cây vừng là một loại cỏ nhỏ, thân có nhiều lông, cao chừng 0,6m, sống hằng năm. Lá mọc đối, đơn, không có lá kèm, nguyên, có cuống.

Hoa trắng mọc đơn độc ở kẽ lá, lưỡng tính, không đều, có cuống ngắn. Đài hơi hợp ở gốc. Tràng hình ống loe ra thành hai mồi, môi dưới gồm 3 thùy, mỗi trên 2 thùy, 4 nhị. 2 to, 2 nhỏ, 2 lá noãn, đầu nhụy có 2 nuốm, bầu có vách già chia thành 4 ô, mỗi ô chứa một dãy dọc nhiều noãn. Quả nang dìa, 4 ô mở thành 4 mảnh. Nhiều hạt nhỏ màu vàng hay nâu đen, Lá mầm chứa nhiều dầu

Vừng
Vừng

Phân bố, thu hái và chế biến

Vừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy hạt ăn và để xuất cảng. Ngoài ra những nước khác như Campuchia, Lào, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Tiểu Á, miền nam Liên xô cũ, Rumani, Hy Lạp đều có trồng. Trước cách mạng Tháng Tám, hàng năm toàn nước ta sản xuất chừng 1.200-1.300 tấn, nhiều nhất ở các tỉnh vùng Trung Bộ.

Vào các tháng 7, 8, 9 người ta cắt toàn cây về phơi khô đập lấy hạt, phơi khô, loại bỏ tạp chất là được.

Vừng đen hay vàng đều dùng làm thuốc được, nhưng thường chỉ hay dùng vừng đen. Còn dầu thì ép từ vừng đen hay vàng đều dùng được.

Muốn phát hiện có dầu vùng trong một hỗn hợp dầu hay muốn xem một chất dầu có phải là dầu vừng hay không, người ta thường tiến hành phản ứng Baudouin như sau: Lấy 2ml dầu, thêm 1ml dung dịch 1% (theo thể tích) axit clohidric có pha furfurol, để yên 5 phút, nếu thấy xuất hiện màu đỏ là có dầu vừng. Phản ứng này giúp ta phát hiện chừng 0,5-5% dầu vùng trong hỗn hợp, màu đỏ do sesamol tác dụng trên furfurol. 

Thành phần hóa học

Trong hạt vừng có từ 40-55% dầu, có khi lên tới 60%. Ngoài ra còn chừng 5-6% nước, 20- 22% chất protein, 5% tro, trong đó có 1,7mg đồng, 1% canxi oxalat, 6,3-8,8% chất không có nitơ, pentozan, lexitin, phytin và cholin.

Dầu vừng chứa khoảng 12-16% axit đặc (7,7% axit panmitic, 4,6% axit stearic, 0,4% axit arachidic), 75-80% axit lỏng (trong đó có 48% axit oleic, 30% axit linolic và, 0,04% axit lignoxeric). Phần không xà phòng hóa được chiếm 0,9-1,7% và chừng 1% lexitin.

Trong dấu vừng Villelavecchia và Fabris còn phân tích được chất sesamin C20H18O6, với tỷ lệ chừng 0,25-1%. Ngoài ra còn chừng 0,1% chất sesamol là một phenol có công thức C7H6O3

Công dụng và liều dùng

Trong tây y dùng dầu vừng thay dầu ô liu để chế thuốc tiêm, thuốc cao dán nhọt. Đông y coi dầu vừng và vừng là một vị bổ, nhuận tràng, lợi sữa. Trong các sách cổ đông y người ta viết về vừng như sau: Vừng có vị ngọt, tính bình, không độc, vào 4 kinh phế, tỳ, can và thận, có tác dụng ích gan, bổ thận, nuôi huyết, nhuận táo, là thuốc tự dưỡng cường tráng, chủ trị thương phong, hư nhược, bổ ngũ tạng, ích khí lực, đầy tủy não, bền gân cốt, sáng tai mắt, quên đói sống lâu. Thường dùng nấu với muối chì và các vị thuốc khác làm thuốc cao dán nhọt

Khi kết hợp chất sesamin hay dầu vừng với thuốc trừ sâu pyretrin, người ta thấy với tỷ lệ thêm chừng 5% dầu vừng thì hiệu lực trừ sâu của pyretrin tăng lên rõ rệt.

Dầu vừng là một thực phẩm quý và còn dùng để chế xà phòng, dầu máy.

Khô dầu vừng có thể dùng làm phân bón, thức ăn cho súc vật, nuôi cá. Tuy nhiên có tác giả cho rằng khô dầu vùng cho súc vật ăn sẽ gây đau bụng, đầy hơi, khó tiêu, run rét. Thực tế người ta vẫn cho súc vật ăn mà không làm sao và sở dĩ có hiện tượng đọc nổi trên là do khô dầu lên men mà sinh ra chăng?

Hoa vừng ngâm vào nước đắp lên mắt đau làm mát mắt, dịu đau.

Nước sắc lá và rễ vừng được nhân dân Ấn Độ, Trung Quốc dùng làm thuốc mọc tóc và giữ cho tóc được đen lâu.

Liều dùng hằng ngày: Ngày uống 10 đến 25ml làm thuốc bổ, muốn nhuộm và tẩy, tăng liều lên tới 40 đến 60g.

Vừng đen: Ngày có thể dùng 12 đến 25g dưới dạng thuốc viên, thuốc bột hay thuốc cao.

Đơn thuốc có Vừng dùng trong nhân dân 

Thuốc chữa cao huyết áp

Vừng đen, hà thủ ô, ngưu tất, các vị bằng nhau tán nhỏ, dùng mặt viên thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 10g, dùng chữa bệnh cao huyết áp, mạch máu bị xơ cứng, bị cảm mà bán thân bất toại, táo bón.

Thuốc lợi sữa

Vừng đen sao qua, giã nhỏ cho thêm ít muối ăn hằng ngày cho lợi sữa, chữa phụ nữ cạn sữa

Trẻ con bị xích bạch lỵ

Dùng dầu vừng 5 hay 10g tùy theo tuổi hòa với mật ong cho uống.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!