Cây Tía Tô – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

196
Tía Tô
Tía Tô
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

 Tía Tô trang 665-666 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là tử tô, tử tô tử, tổ ngạnh.

Tên khoa học Perilla ocymoides L. [Perilla nankinensis (Lour.) Decne, Perilla frutescens (L.) Breit).

Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae.).

Ngoài công dụng làm gia vị, cây tía tô cho các vị thuốc say đây

  1. Tử tô tử (tô tử, hắc tô tử-Fructus Perillae) là quả chín phơi hay sấy khô (ta gọi nhầm là hạt) của cây tía tô.
  2. Tử tô (Herba Perilae) là cành non có mang lá của cây tía tỏ phơi hay sấy khô.
  3. Tử tô diệp-Folium Perillac là lá phơi hay sấy khô .
  4. Tô ngạnh (Tử tô ngạnh-Caulis Perillae) là cành non hoặc cảnh già phơi hay sấy khô.

Mô tả cây

Tía tô là một loại cỏ mọc hằng năm, cao chừng 0,5-1,5cm. Thần thẳng đứng có lông. Lá mọc đổi, hình trứng, đầu nhọn, mép có răng cưa to; phiến lá dài 4-12cm rộng 2,50-10cm, màu tím hoặc xanh tím, trên có lông màu tím. Người ta phân biệt thứ tía tô có lá màu tím hung là Perilla ocymoides var. purpurascens và thứ tía tô có lá màu lục, chỉ có gân màu hung (Perilla ocymoides var.bicolor). Cuống lá ngắn 2-3cm. Hoa nhỏ, màu trắng hoặc tím nhạt, mọc thành từng chùm ở kẽ lá hay đầu cành, chùm dài 6-20cm. Quả là hạch nhỏ, hình cầu, đường kính 1mm, màu nâu nhạt, có mạng.

Tía Tô
Tía Tô

Phân bố, thu hái và chế biến

Tía tô được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam để lấy lá ăn làm gia vị và làm thuốc. Trồng bằng hạt, chọn ở những cây to khoẻ, không có sâu bệnh. Thời kỳ gieo hạt tốt nhất là sau lập xuân vào tháng 1-2 dương lịch. Mỗi hecta cần chừng 20-30kg hạt giống.

Tuỳ theo mục đích trồng lấy lá hay lấy hạt, cách thu hoạch có thay đổi: Tía tô gieo vào tháng 1-2 thì tháng 3-4 đã có thể hái lá lần thứ nhất. Lúc hái chỉ nên hai lá già, sau đó ít lâu (một tháng sau) lại có thể hái một lần nữa. Sau lần thứ nhất, cần chăm sóc bằng cách tưới nước tiểu pha thêm nước lã, hay dùng khô dấu giã nhỏ, bón vào gốc sau khi xới đất cho nhỏ. Thông thường một cây chỉ hái 2-3 lần lá. Nếu cây tía tô sau khi hái lá cứ để nguyên, thì đến đầu mùa thu, quả sẽ già và hái được, nhưng thường những cây tía tô đã hải lá rất ít hát hay hạt nhỏ và kém cho nên sau khi hái hết lá, người ta chặt cây, lấy đất trồng cây khác. Cảnh chặt ra dùng làm thuốc với tên tổ ngạnh.

Những cây để lấy hạt làm giống hay làm thuốc thì không hái lá. Cây tía tô để lấy hạt, sau khi hạt đã già, cắt cả cành có hạt mang về phơi hay sấy khô trong mất (tránh phơi nắng to, hay sấy ở nhiệt độ cao hoạt chất sẽ giảm), rũ lấy hạt, bỏ cành và tạp chất.

Tiêu thụ nhiều nhất là lá. Lá hái về, cũng phải phơi khô trong mất hay sấy nhẹ độ để giữ lấy hương vị.

Thành phần hoá học

Trong toàn cây tía tô có chứa 0,50% tinh dầu, trong tỉnh dấu, thành phần chủ yếu là perilla- andehyt C10H14O, (55%), limonen (20-30%), α- pinen và dihydrocumin C10H14O. Chất perilla andehyt có mùi thơm đặc biệt của tía tô, chất perilla andehyt anti-oxim ngọt gấp 2.000 lần đường, khó tan trong nước, đun nóng sẽ phản giải, có độc, cho nên không dùng làm chất điều vị được, nhưng có người dùng làm ngọt thuốc lá.

Chất màu trong lá tía tô là do este của chất xyanin clorit C27H31O16Cl. Ngoài các chất trên. trong tía tổ còn chứa adenin C5H5N5 và acginin C6H14N4O2.

Trong hạt tía tô có 45-50% chất dấu lỏng, màu vàng, mùi và vị của dấu lanh (huilede lin), thuộc loại dầu khô, có chỉ số iốt vào loại cao nhất (206), chỉ số xà phòng 189,6 tỷ trọng 0,930.

Hàng năm Nhật Bản và Triều Tiên trước đây sản xuất tới 60.000 tấn dầu này để quét lên dù làm cho dù không thấm nước hoặc quét lên loại giấy không thấm nước.

Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ tía tô có vị cay, tính ôn, vào hai kinh phế và tỳ. Có tác dụng phát tán phong hàn, lý khí khoan hung; giải uất, hoá đờm, an thai, giải độc của cua cá. Cành không có tác dụng phát biểu, chỉ có tác dụng lý khí. Dùng chữa ngoại cảm phong hàn, nôn mửa, động thai, ngộ độc của cá.

Thông thường lá tía tô (tô diệp) có tác dụng là cho ra mồ hôi, chữa ho, giúp sự tiêu hoá, giảm đau, giải độc, chữa cảm mạo, còn có tác dụng chữa bị ngộ độc nôn mửa, đau bụng do ăn của cá.

Cành tía tô (tử tô tử) có tác dụng chữa ho trừ đờm, hen suyễn, tê thấp.

Liều dùng hằng ngày: Lá và hạt ngày uống 3-10g, cành ngày uống 6-20g dưới dạng thuốc sắc.

Dầu hạt tía tô: Ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản dùng trong kỹ nghệ vẽ trên đồ sứ, thực phẩm.

Đơn thuốc có tía tô

  1. Săm tỏ ẩm: Chữa bệnh cảm mạo, sắt, nhức đầu, đau các khớp xương

Lá tía tô, nhân sâm, trần bì, chỉ xác, cất cánh. cam thảo, mộc hương, bán hạ, can khương, tiền hồ mỗi vị 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

  1. Tử tô giải độc thang; Chữa trúng độc đại bụng do ăn phải của cá:

Lá tía tô 10g, sinh khương 8g, sinh cam thảo 4g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống khi thuốc còn đang nóng.

  1. Chữa sưng vú

Tía tô 10g sắc lấy nước uống, bã đắp vào vú.

  1. Ăn phải cua hay cá mà trúng độc:

Giã lá tía tô tươi vắt lấy nước hoặc sắc lá khổ (10g khô) uống nóng.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!