Cây Thảo Đậu Khấu (Ngẫu Tử) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

326
Thảo Đậu Khấu
Thảo Đậu Khấu
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Thảo Đậu Khấu trang 409-410 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Thảo Khấu Nhân, Ngẫu Tử.

Tên khoa học Alpinia katsumadai Hayt. 

Thuộc họ Gừng Zingiberaceae.

Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo đậu khấu (Alpinia katsumadai). 

Mô tả cây

Thảo đậu khấu là một loại cỏ sống lâu năm cao 1-2m. Thân rễ màu nâu đỏ. Lá mọc so le, hình mác, dài 30-55cm, rộng 2-9cm. Cụm hoa hình chùm, dài 30cm, ở đầu cành. Hoa màu trắng, hình ống, dài 1,2cm, trong có đốm màu tím đỏ nhạt. Quả hình cầu đường kính 3,5cm, còn đài tồn tại, khi chín có màu vàng

Thảo Đậu Khấu
Thảo Đậu Khấu

Phân bố, thu hái và chế biến

Chưa thấy ở Việt Nam. Chỉ mới thấy khai thác ở đảo Hải Nam, Quảng Đông (Trung Quốc). Vào các tháng 8-9, hải quả về phơi gần khô thì bóc bỏ vỏ rồi phơi cho thật khô, có khi hái về nhúng vào nước sôi, phơi gần khô, lấy ra bóc vỏ rồi phơi cho thật khô. Tại một vài nơi ở đảo Hải Nam, người ta còn hái về, đun hay đồ với nước sôi trong 2-3 giờ, lấy ra bỏ vỏ phơi khô. Làm như vậy hạt chắc không rời nhau ra nhưng tinh dầu bị giảm bớt.

Thành phần hóa học

Trong thảo đậu khấu có chừng 4% tinh dầu mùi long não (theo Wehmer., 1929., Die Pflanzenstoffe Bd. I: 182).

Công dụng và liều dùng

Thảo Đậu Khấu chỉ mới thấy dùng trong đông y. Tính vị theo đông y là vị cay, chát, tính ôn, có tác dụng khử hàn táo thấp, ôn trung khai vị, giải độc. Dùng chữa dạ dày lạnh đau, nôn ra nước chua, nôn mửa, tả lỵ, có tác dụng chữa say rượu và giải độc cá độc.

Ngày dùng 3-6g.

Chú thích:

Ngoài vị thảo khấu nói trên, tại Quảng tây (Trung Quốc) người ta còn dùng với tên thảo khấu (quả cây se) (Alpinia globosa Horan). Ở Việt Nam ta có cây này. Tại Vân Nam người ta thu mua quả cây Alpinia blepharocalyx K. Schum làm vị thảo khấu, quả cây Globba chinensis K. Schum làm vị tiểu thảo khấu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!