Cây Táo Ta – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

328
Cây Táo Ta
Cây Táo Ta
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Táo Ta trang 805-807 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là toan táo nhân.

Tên khoa học Zizyphus jujuba Lamk.(Zizyphus trinervia Roth.)

Thuộc họ Tảo Rhumnaceae.

Toan táo nhân (Semen Zizyphi) là nhân phơi hay sấy khô của hạt cây táo vẫn cho ta quả.

Mô tả cây

Cây táo là một cây nhỏ, có gai, cành thông xuống. Lá hình bầu dục ngắn hoặc hơi thon dài; mặt trên xanh lục và nhẵn, mặt dưới có lòng, mép có răng cưa. có 3 gần dọc theo chiều lá. Hoa trắng, mọc thành xim ở kẽ lá, trục chính dài 3.7mm. Quả hạch có vỏ quả ngoài nhẵn, màu vàng xanh, vỏ quả giữa dãy, vị ngọt, hạch cứng xù xì. Đập hạch ra sẽ được nhân hạt láo, phơi khô gọi là táo nhân.

Phân bố thu hái và chế biến

Được trồng khắp nơi ở nước ta để lấy quả ăn. Vào tháng 2-3 hải quả về, bỏ thịt lấy hạch xảy ra được nhân, phơi hay sấy khô. Khi dùng để sống hay sao đen. Nếu dùng sống phải dùng liều thấp.

Cây Táo Ta
Cây Táo Ta

Thành phần hoá học

Nhiều tài liệu nghiên cứu về toan tần nhân, nhưng chưa thống nhất.

1. Có tài liệu (Trung Quốc hoá học tạp chí, 1936) nói trong táo nhân có 2 loại phytosterol, một chất có độ chảy 288-290C, công thức là C26H42O2 tan trong ete, một chất có độ chảy 259-260’C, tan trong clorofoc. Ngoài ra còn chứa dầu. Không có ancaloit.

2. Theo một tài liệu khác (Nhật được chí, 1940) thành phần chủ yếu là axit betulinic C,H,O, tinh thể hình phiền, tan trong rượu, độ chảy 316-320°C và betulin C,H,O, Ngoài ra
còn có nhiều vitamin C.

3. Theo sự nghiên cứu của hệ Dược viện y học Bắc Kinh gần đây, trong nhân hạt táo có 2,52% saponin và có phản ứng ancaloit.

Theo S. Shibata và cộng sự (Phytochem. 1970, 6, 677 và 1974 13, 2829) trong nhân táo- Ziziphus jujuba Mill. var, spinosus spinosus Hu hoặc Ziziphus spinosus có 0,1% saponin bao gồm jujubozit A và B với genin là jujubogenin với độ chảy 25-27°C. 0, * = -36″ (trong cồn etylic). Khi thuỷ phân jujubozit bằng axit sẽ được jujubogenin, và tiến lên một bước thành chất ebelin lacton có độ chảy 182-185″C, (alpha)D=14 độ (trong clorofoc).

4. Trong lá táo có rutin và quexetin.

Tác dụng dược lý

Năm 1956, Hồ Mộng Gia đã báo cáo ở Đại hội đại biểu hội sinh lý học Trung Quốc về tác dụng trấn tỉnh của toàn táo nhân. Ông đã dùng dung dịch nước nhân hạt táo thụt vào dạ dày và ruột hoặc tiêm vào màng bụng chuột nhất đã được kích thích bằng cách tiêm dung dịch cafein- benzoat natri thì thấy với liều 5g/kg thể trọng có tác dụng trấn tĩnh. Tác dụng này giống như tác dụng của thuốc ngủ bacbituric.

Năm 1967, Viện chống lao Hà Nội đã xác minh lá táo có tác dụng chữa viêm phế quản. khó thở (Y học thực hành, 146. 8: 3).

Xem thêm dược liệu khác: Cây Keo Giậu (Bồ Kết Dại) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Công dụng và liều dùng

Theo quan sát trên lâm sàng vị thuốc có tác dụng trấn tĩnh và gây ngủ rõ rệt (Dược học thông bảo, 1953). Người lớn uống 15-20 hạt (tương đương với 0,8g-1,8g) thì có công hiệu. Dùng quá liều có thể bị trúng độc và mất tri giác, hôn mê. Nếu dùng liều cao (6-15g) như các sách cổ, cần sao đen đi vì sao đen có lẽ là một hình thức để giảm chất độc đi.

Theo tài liệu cổ, toàn táo nhân có vị ngọt, tính bình, vào 4 kinh tâm, can, đởm và tỷ. Có tác dụng bổ can, đởm, định lâm. an thần. Dùng chữa hư phiền không ngủ được, hồi hộp hay quen, tàn dịch ít, miệng khô, người yếu ra nhiều mồ hôi. Những người có thực tà, uất hoả không dùng được.

Đơn thuốc có toàn táo nhân.

Chữa mất ngủ, thần kinh suy nhược:

Toan táo nhân (sao đen) 6g, phục linh 5g, xuyên khung 3g, tri mẫu 4g, cam thảo 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.

Chú thích:

Đừng nhầm toan táo nhân, (hạt quả táo ta ăn), với hạt quả cây keo hay bồ kết dại Leucaena glauca có nơi người ta cũng gọi là nam toàn táo nhân vì trông 2 hạt gần giống nhau.

Hạt keo có tác dụng trị giun (xem vị này)

2. Ngoài hạt táo, nhân dân còn dùng lá táo chữa hen rất có kết quả:

Ngày uống 200-300g lá táo sao vàng sắc với 3 bất nước, còn 1 bát chia 2 lần uống vào trước bữa ăn 1 giờ, uống liên tục từ 1 tuần đến 2 tháng (Y học thực hành. 12-1966, 24-28).

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!