Cây Đại Bi (Cây Từ Bi Xanh) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

357
Cây Đại Bi
Cây Đại Bi
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Đại Bi trang 622- 624 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là băng phiến, mai hoa băng phiến, mai phiền, long não hương, mai hoa não, ngải nạp hương, ngải phiến, từ bi.

Tên khoa học Blumea balsamifera (L.) DC. (Conyza balsamifera L. Baccharis salvia Lour.)

Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).

Băng phiến (Bocneola hay Borneo-camphor) có thể do 3 nguồn gốc:

  1. Chế từ gỗ cây long não hương (Dryobalanops aromatica Gaertn.) thuộc họ Dấu hoặc họ Quả hai cánh Dipterocarpaceae. Cây này chưa thấy ở nước ta.
  2. Chế từ cây đại bị hay từ bi hoặc từ bi xanh Blumea balsamifera DC., thuộc họ Cúc Compositae. Cây này có ở nước ta và sẽ giới thiệu kỹ sau đây.
  3. Chế bằng phương pháp tổng hợp hoá học, không giới thiệu ở đây.

Trước đây ta vẫn phải nhập vị băng phiến để làm thuốc. Ngay từ kháng chiến chống Pháp, chúng tôi đã bắt đầu khai thác chế lấy băng phiến từ cây đại bị mọc ở nước ta, sau đó công việc tạm dừng. Hiện nay ta đang đặt vấn đề khai thác trở lại.

Mô tả cây

Cây đại bi hay từ bi là một cây nhỡ, cao từ 1,5m đến 2,5m. Thân có nhiều rãnh chạy đọc, có nhiều lòng, trên ngọn có mang nhiều cành. Lá hình trứng hai đầu nhọn nhưng hơi tù, có thể dài tới 12cm, trung bình dài 15cm và rộng 5cm, mặt trên có lông, mép lá gần như nguyên hay xẻ thành răng cưa và ở gốc lá thường có 2, 4 hoặc 6 thuỷ nhỏ do phiến lá phía dưới bị xẻ quá sâu. Vò lá ta sẽ thấy mùi thơm dễ chịu của băng phiến. Hoa màu vàng, mọc thành chuỳ ngủ ở kẽ lá hay đầu cành. Trên hoa có nhiều lông tơ. Quả bế có 2 cạnh dài 1mm, mang chùm lông ở đỉnh.

Cây Đại Bi
Cây Đại Bi

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây đại bi mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, từ rừng núi đến đồng bằng đâu cũng có. Thường cây đại bi hay mọc ở những đổi đã phát quang có nhiều ánh sáng, không thấy trong rừng sâu. Thường mọc thành bãi khá rộng. Vì chưa khai thác nên chưa thống kê được trữ lượng. Còn mọc hoang ở nhiều nước khác như Trung Quốc (Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam), Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia, Philipin…

Trước đây cũng như hiện nay, nhân dân ta thường chỉ biết dùng lá làm thuốc, còn việc cất lấy băng phiến đại bi mà dùng thì không biết. Việc khai thác này lại do những người Trung Quốc bán thuốc rong (hàng thuốc ê trước đây) tiến hành, những người này thường mang theo với gánh thuốc một bộ nồi cất lưu động, vừa đi vừa bán thuốc, họ vừa xem nơi nào có nhiều cây đại bi thì dừng lại, cất lấy băng phiến đại bi, thưởng cất được chùng vài kg, thì tập trung đem bán tại các thành phố hoặc xuất qua đường tiểu ngạch sang Trung Quốc để từ đó lại trở về Việt nam với tên băng phiến hay mai hoa băng phiến. Một số người Việt nam có làm nhưng không phổ biến.

Cát mai hoa băng phiến cần chú ý tiến hành vào mùa thu đông là thời kỳ cây đại bị có nhiều băng phiến. Các tháng khác, cây có nhiều tỉnh dầu hơn băng phiến. Búp và Cát mai hoa băng phiến cần chú ý tiến hành vào mùa thu đông là thời kỳ cây đại bị có nhiều băng phiến. Các tháng khác, cây có nhiều tỉnh dầu hơn băng phiến. Búp và lá non có nhiều băng phiến hơn các lá khác.

Nổi cất thủ công gồm một nổi đầy thường (có thể dùng nồi thổi cơm), một cái chỗ, trên để thau hay chảo làm lạnh. Cho lá và cành băm nhỏ vào nồi, thêm nước vào cho ngập lá, trát kín chỗ và thau, sau đó đun sởi nhẹ, giữ cho lửa nhỏ trong vòng 3-4 giờ, mai hoa băng phiến thắng hoa lên sẽ bám vào đây thau, cạo lấy, ép cho hết dầu và tinh chế. Muốn tinh chế mai hoa băng phiến, trộn băng phiến thô với than củi, với, bột theo tỷ lệ 100 phần băng phiến thô, thêm 5 phần than củi, 3 phần với bọt, cho hỗn hợp này vào một nồi gang nhỏ, trên nồi gang đặt một chiếc chỗ, đậy vung trất kín. Đun nhẹ, băng phiến sẽ thăng hoa lên, bám vào thành chõ, cao lấy là

được. Tỷ lệ băng phiền thu được thường từ 0,3 – 0,5%.

Thành phần hoá học

Trong lá đại bị thường có chừng 0,2 đến 1,88% tinh dầu và chất băng phiến. Thành phần chủ yếu của tinh dầu có d. bocneola I. campho xineola

Chất băng phiến tinh chế gồm chủ yếu là chất bocneola công thức C.H, O, có tình thể trong óng ánh và trắng như hoa mai do đó có tên mai hoa (hoa mai). Điểm chảy 203-204 C, rất dễ thăng hoa, độ sôi 212°C.

Chất bocneola có thể tổng hợp được từ tỉnh dấu thông.

Tác dụng dược lý

Năm 1938, Grevenstuck A. và H. Harms đã dùng nước sắc lá đại bi, làm đẳng trương bằng nước Ringer để tiêm vào mạch máu súc vật thì thấy huyết áp hạ do tim co bóp yếu, đi vào do dẫn mạch máu ngoại vi. Vận động hô hấp được tăng cường, có lẽ do trung tâm hô hấp bị kích thích, tính cọ và trương lực của ruột và của tử cung bị giảm xuống.

Công dụng và liều dùng

Lá đại bi chủ yếu được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa cảm sốt, cảm cúm, làm cho ra mổ hôi, chữa ho, trừ đờm, đầy bụng không tiêu, đau bụng. Hay dùng nhất dưới dạng thuốc xông chữa bị cảm, mở hội bí không ra được: Một nắm lá

đại bi khổ, một nắm lá bưởi, một nắm lá chanh, một nắm lá sả, tất cả cho vào nồi nước đun sôi. Bệnh nhân ngồi trên giường trước mặt đặt nổi nước nói trên, trong nổi có sẵn đôi đũa để bệnh nhân vừa xông vừa khuấy cho đều. Dùng chăn trùm kín cả người và nổi nước, hơi nước có các chất thơm bốc lên làm bệnh nhân ra mồ hôi. Làm như vậy một hai lần, ngồi nơi kín gió vì sau khi xông xong, mở chân ra, bệnh nhân đang có nhiều mồ hôi, dễ bị cảm lạnh.

Nước sắc lá đại bi uống để chữa đầy bụng, ăn uống không tiêu, họ. Ngày uống 20-30g lá tươi.

Băng phiến đại bỉ được dùng trong đông y từ lâu, có ghi trong các sách cổ là vị cay, đắng, hơi lạnh, không độc, vào 3 kinh phế, tâm và can. Có tác dụng thông ác khiếu, tan uất hoả, tan màng mắt, sáng mắt, chữa đau bụng, đau ngực, họ lâu ngày, ngạt mũi, đau cổ họng, đau mất cảm gió, cấm khẩu đau răng. Nhưng không được uống với rượu làm cho thuốc dẫn mau quá có thể ngộ độc. Còn dùng bởi ngoài chữa mụn nhọt lở loét.

Liều dùng hàng ngày là 0,10 đến 0,20g chia làm nhiều lần uống dưới hình thức thuốc bột dùng ngoài không kể liều lượng thường phối hợp với các vị thuốc khác.

Đơn thuốc có băng phiến

Chữa viêm cổ họng mãn tính, viêm amidan (kinh nghiệm cổ truyền):

Băng phiến 1g, khô phần (phèn chua phi khô) 2,5g, hoàng bá đốt thành than 2g, đăng tâm thảo đốt thành than 3g, tất cả tán nhỏ, mỗi lần dùng chừng 3-4g thổi vào cổ họng.

Chú thích:

– Như trên đã giới thiệu, băng phiến còn lấy từ gỗ cây long não hương Dryobalanops aromatica Gaertn (D. camphora Colebr.) thuộc họ Quả hai cánh (Dipterocarpaceae) chế ra. Cây này mới thấy giới thiệu ở Inđônêxya. Trước đây bản thân Trung Quốc cũng nhập vị băng phiến này để bán lại sang ta. Cây này chưa thấy ở nước ta.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!