Sam Sâm – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

213
Sa Sâm
Sa Sâm
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Sa Sâm trang 816 – 818 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là pissenlit maritime, salade des dunes.

Tên khoa học Launaea pinnatifida Cass (Microrhynchus sarmentosus DC., Prenanthes sarmentosa Willd.)

Thuộc họ Cúc Asteraceae (Composite).

Sa=cát, sâm = sâm vì vị thuốc có công dụng như sâm mà lại mọc ở cát.

Tên sa sâm dùng để chỉ rất nhiều vị thuốc lấy từ rễ ở nhiều cây khác nhau, thuộc họ thực vật khác hẳn nhau. Ở đây trước hết chúng tôi giới thiệu một loại sa sâm đang được ta khai thác, sau đó giới thiệu các vị thuốc sa sâm khác. Khi nghiên cứu và sử dụng cần đặc biệt chú ý tránh nhầm lẫn.

Mô tả cây

Sau đây là mô tả cây sa sâm đang được khai thác tại Nam Định, Hà Nam, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

Loại cỏ sống lâu năm, có rễ mềm mọc thẳng, dài 15-25cm mẫu vàng nhạt. Mỗi gốc có thể mọc ra 2 hay 3 thân bò hình sợi dài. Thân bò như những cây khác, cứ như vậy mọc lan chạy dài mãi. Là mọc ở gốc xếp thành hoa thị ở quanh gốc. Lá dài 5– 8cm xe lòng chim gồm 7-8 thuỷ, các thuỳ dưới thon lại thành cuống. Mép lá có răng cưa thưa và không đều trồng giống lá cải cúc hay bỏ công anh (tên Pháp gọi là bồ công anh ở biển = pissenlit mari- time). Hoa hình đầu, màu vàng, mọc ở đốt và ở gốc. Cuống ngắn, mọc đơn độc, thành ngù ít hoa Quả bế hình trụ, đầu hơi thon lại, dài 4m có chùm lồng sớm rụng.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây này mọc hoang phổ biến ở các bờ biển. Việt Nam, vùng Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

Vào các tháng 3-4 và 8-9, nhân dân đào về rửa sạch bằng nước vo gạo, đồ chín rồi phơi khô.

Có nơi hái về rửa sạch, ngâm nước phèn chua 1/5 hoặc 2/5, phơi cho se, xong điểm sinh hơn 1 giờ rồi mới phơi khô hẳn. 

Sa Sâm
Sa Sâm

Thành phần hoá học 

Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.

Sơ bộ tìm thấy có chất đường, tanin, ít chất béo. (Nguyễn Văn Chi, 1/1961, Bộ môn dược liệu Hà Nội).

Tác dụng dược lý 

Chưa có tài liệu nghiên cứu

Công dụng và liều dùng

Hiện nay ở một số nơi các vị đông y dùng thay vị sa sâm trước đây nhập của Trung Quốc (xem ở những vị sa sâm khác) làm thuốc chữa bệnh ho, trừ đờm, chữa sốt. Liều dùng 6-12g một ngày đuổi dạng thuốc sắc, phối hợp với các vị thuốc khác.

Có nơi nhân dân hải là ăn sống như rau xà lách và chữa bệnh tạng bạch huyết (lymphatisme). Có khi người ta dùng rễ phơi khô sao vàng sắc đặc uống cho mát phổi (giải nhiệt) có tác dụng nhuận và thông tiểu, Vùng Nha Trang những người đi bế dùng cây này giã nhỏ chữa những chỗ cá mực cân.

Những vị sa sâm khác.

  1. Theo A. Pelelot, ở nước ta có hai loại sa sâm nita:
  2. Rễ cây Adenophora verticillata Fisch (Adenophora tetraphylla (Thunb) Fisch.).

Thuộc họ Hoa chuông Campanulaceae.

Loại cỏ sống lâu năm, rễ to mập, thân mọc thẳng đứng, nhẵn, có khía dọc, cao 0,3-1,4m. Lá ở phía gốc có cuống, hơi tròn, mép khía tai bèo, lá ở thân mọc vòng hay mọc đối gần như không cuống, mép có răng cưa, tuỳ theo ở vị trí cao thấp có hình bầu dục hơi hình mác, dài 3-10cm, rộng 1-2cm. Hoa màu xanh, mọc thành chùm nhỏ, có ít hoa, cuống hoa rất nhỏ. Quả mọc treo là một nang hình trứng hơi phẳng ở phía đỉnh, quanh đỉnh có đài tồn tại. Quả có 3 ngăn. Hạt dẹt, bóng, màu vàng nhạt, dài 1.5mm.

Theo A. Pételot và Ch. Grévost cây này mọc hoang khá nhiều ở các ruộng bỏ hoang miền Bắc Việt Nam nhất là vùng chợ Ghênh (Nam Hà) (Hình 627).

Trung Quốc có dùng rễ cây này với tên là nam sa sâm (nam sa Sàm ở đây không có nghĩa là sa sâm của Việt Nam) hay luân diệp sa sâm (luân diệp là là mọc vòng vì cây có lá mọc vòng) hay cát sâm vì mọc ở tỉnh Cát Lâm.

Cây này mọc ở Trung Quốc tại các tỉnh Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Quảng Đông, Giang Tây.

Theo Trung Hoa được học tạp chí (1936) trong rễ nam sa sâm này có một chất saponin với công thức thô C36H58O4.

Đông y dùng sa sâm làm thuốc chữa sốt, miệng khô, khát nước, phổi nóng mà họ, họ ra máu.

Liều dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.

  1. Tế diệp sa sâm (sa sâm lá nhỏ) là rễ phơi khô cua cay Wahlenbergia gracilis A.DC. hay Campanula vincaeflora Vent, thuộc họ Hoa chuông Campanulaceae.

Loại cỏ có nhiều dạng, cao 10-60m, thần không chia hoặc có cảnh nhẫn hoặc có lòng, lá mọc so le, mỏng hình bầu dục hay hình mác, mép có răng cưa, phía cuống hẹp lại, dài 3-5cm, rộng 3-6cm. Hoa màu xanh hay trắng mọc ở đầu cành hoặc mọc thành xim. Quả nang, hình trứng dài 3-8mn, đình còn đài sót lại. Hạt nhiều, rất nhỏ, màu vàng nhạt.

Theo A. Petolot cây này rất hay gặp ở những ruộng bỏ hoang ở toàn Việt Nam, Lào và Campuchia.

Nhưng cho đến nay chúng ta chưa phát hiện lại được.

Rễ phơi khô dùng như nam sa sâm.

  1. Ta cũng nhập của Trung Quốc vị bắc sơ sớm còn gọi là hải sa sâm, liệu sa sâm-Radix Glehnite- là rễ phơi hay sấy khô của Glehnia littoralis E. Schmidt (Phellopteris littoralis Benth), thuộc họ Hoa tán Umbelliferae. Cây này là một loại cỏ sống lâu năm, cao 7- 35m, rễ dài và nhỏ, dài tới 30km, đường kính 0,5- 1,5cm. Lá mọc so le, cuống dài tới 12cm, lá kép hai lần lông chim. Cụm hoa tán kép, mỗi tấn có tới 15-20 hoa nhỏ màu trắng.

Cây này mọc ở Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Đài Loan.

Qua sự phân bố ở các tỉnh của Trung Quốc, là có thể thử tìm ở các tỉnh ven biển của ta vùng Quảng Ninh.

Vào các tháng 6-7 hoặc 8-9 người ta đào rễ. cắt bỏ thân, rễ con, rửa sạch đất, cạo bỏ vỏ ngoài phơi khô.

Đây mới là vị sa sâm chính thức, có vẻ nhỏ, đài L5-30km, đường kính 3-8mm màu vàng trắng nhạt mà ta vẫn dùng trước đây.

Thành phần hoá học và tác dụng dược lý chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Thường dùng chữa sốt, khát nước, có khô, họ, hư lao

Liêu dùng 8-16g dưới dạng thuốc sắc. Thường uống phối hợp với các vị thuốc khác.

Theo tài liệu cổ sa săm có vị ngọt, hơi đắng. tính hơi hàn, vào kinh phế. Có tác dụng dinh dưỡng và thanh phế, trừ hư nhiệt, trừ ho, khử đờm. Bác và nam sa sâm công dụng như nhau. nhưng bác sa sâm có tác dụng dinh dưỡng mạnh hơn, nam sa sâm khử đờm mạnh hơn. Dùng chữa phế âm không đủ, hư nhiệt sinh họ, họ khan, ho đờm.

Tóm lại vì sa sâm hiện nay nguồn gốc rất phức tạp. Sa sâm ta đang dùng và khai thác thực ra chỉ là sáng kiến của ta, là một cây thuộc họ Cúc, trong khi sa xâm nhập của Trung Quốc cũng rất khác nhau hoặc là thuộc họ Hoa tán hay Hoa chuông. Nên chú ý nghiên cứu phân biệt.

Cần chú ý để tránh nhầm lẫn và theo dõi hiệu lực.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!