Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Nhân Sâm trang 804 – 808 tải bản PDF tại đây.
Còn có tên là viên sâm, dã nhân sâm.
Tên khoa học Panax ginseng C. A. Mey. (P. schinseng Necs.)
Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.
Tên nhân sâm do vị thuốc giống hình người. Tên Panax do chữ Hy Lạp pan là tất cả, acos là chữa được, có ý nói vị thuốc chữa được mọi bệnh, ginseng và schinseng là phiên âm chữ nhân sâm.
Mặc dầu vị nhân sâm hiện nay ta vẫn còn phải nhập nhưng công dụng quá phổ biến, nhiều người lầm với một số cây ta có. Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đều đã giúp ta hạt giống và mầm để thí nghiệm trồng thử cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn và để cố gắng đặt vấn đề di thực được nhân sâm.
Nhân sâm (Radix ginseng hay Radix ginseng sylvestris) là rễ chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây nhân sâm trồng hoặc mọc hoang. Có tác giả xác định hai loại nhân sâm như sau:
- Nhân sâm mọc hoang:
Panax ginseng C. A. Mey. forma sylvestre Chao et Shih.
- Nhân sâm trồng:
Panax ginseng C. A. Mey. forma sativum. Chao et Shih.
Mô tả cây nhân sâm
Cây nhân sâm là một cây sống lâu năm, cao chừng 0,6m. Rễ mầm thành củ to. Lá mọc vòng, có cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt. Nếu cây mới được một năm (nghĩa là sau khi gieo được 2 năm) thì cây chỉ có 1 lá với 3 lá chét, nếu cây nhân sâm được 2 năm cũng chỉ có 1 lá với 5 lá chét. Cay nhân sâm 3 năm có 2 lá kép, cây nhân sâm 4 năm có 3 lá kép, cây nhân sâm 5 năm trở lên có 4 đến 5 lá kép, tất cả đều có 5 lá chét (đặc biệt có thể có 6 lá chét) hình trứng, mép lá chét có răng cưa sâu.
Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi, cây nhân sâm mới cho hoa, kết quả. Hoa xuất hiện vào mùa hạ. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành, hoa màu xanh nhạt, 5 cánh hoa, 5 nhị, bầu hạ 2 núm. Quả mọng hơi dẹt to bằng hạt đậu xanh, khi chín có màu đỏ, trong chứa 2 hạt. Hạt cây sâm năm thứ 3 chưa tốt. Thường người ta bấm bỏ đi đợi cây được 4-5 năm mới để ra quả và lấy hạt làm giống.
Phân bố, trồng hái và chế biến
Cây nhân sâm mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc, Triều Tiên, vùng Viễn Đông của Liên Xô cũ, còn được trồng ở Nhật Bản, Mỹ, nhưng nổi tiếng vẫn là sâm Triều Tiên và Trung Quốc. Riêng hai tỉnh Liêu Ninh và Cát Lâm (miền Đông Bắc Trung Quốc) sản lượng hàng năm lên tới 750.000kg.
Tại Triều Tiên, Khai Thành là nơi trồng nhiều nhân sớm nhất, đã có trên 200 năm kinh nghiệm, Việt Nam tuy đã có thí nghiệm trong bằng hạt và mầm do các nước bạn Triều Tiên, Liên Xô cũ và Trung Quốc giúp nhưng chưa thành công.
Sau đây chúng tôi giới thiệu sơ lược cách trồng và chế biến nhân sâm của Khai Thành (Triều Tiên).
- Chọn hạt giống:
Chọn ở những cây sâm mọc khoẻ, tốt đã mọc được 4 hoặc 5 năm (vùng Đông Bắc Trung Quốc chọn những cây đã được 5-6 năm) vì cây 3 năm chưa đủ khoẻ cây, 6 năm vỏ hạt cứng quá khó nảy mầm.
- Gieo hạt
Hạt thu hoạch tháng 8, cuối tháng 10-11 gieo hạt, tưới nước và để nằm dưới đất qua mùa đông có tuyết.
Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm sau, hạt nảy mầm. Tỷ lệ nảy mầm đạt tới 47%. Trong thời gian cây lớn cần tưới đều giữ ẩm thích hợp.
- Đánh cây con đi trống
Có thể đánh vào mùa thu (cuối tháng 10 đến trung tuần tháng 11) hoặc vào mùa xuân (đầu tháng 3 đến đầu tháng 4) ngay trong năm đầu sau khi cây nảy mầm. Đánh đi trống vào mùa xuân thì tốt hơn.
Trong thời gian trồng cần che nắng cho nhân sâm, nên cho ánh nắng buổi sáng chiếu vào nhiều tránh nắng trưa và chiều.
Phân bón dùng phân xanh và khô dấu, không bón thúc bằng phân bắc và nước tiểu.
- Thu hoạch
Sau 6 năm, vào trung tuần tháng 9 và thương tuần tháng 10 đào củ, chú ý tránh làm rễ bị đứt, không phơi gió, phơi nắng để giữ nguyên độ ẩm trong sâm. Sau đó chia loại săm tốt để chế hồng sâm, loại kém để chế bạch sâm.
- Chế biến nhân sâm
Trên thị trường có nhiều loại sâm do chế biến khác nhau. Ở đây chỉ giới thiệu cách chế biến hai loại hồng sâm và bạch sản của Triều Tiên
a) Hồng sâm: Chọn những củ sâm to nhất, nặng ít nhất 37g, rửa sạch đất từng củ một bằng bàn chải nhỏ, rửa ở dưới nước, để nguyên cả rễ, kể cả rễ nhỏ, rửa như vậy sẽ được củ sâm trắng ngà. Cho vào nồi hấp ở áp lực hơi nước cao 2 atmotphe từ 1 giờ 20 phút đến 1 giờ 30 phút. Nhiệt độ hấp 80-90C. Sau đó sấy khô ở nhiệt độ 60-70° C (6-7 giờ) hoặc ở 50- 66) (8-10 giờ) nên sấy khô hết sức mau.
Sau khi sấy khô, dùng tay rút các rễ con để riêng gọi là ra sớm, củ sâm còn lại giống như hình người (nếu không giống thì sửa cho giống) phơi ra nắng từ 7 đến 15 ngày (tuỳ theo sam to hay nhỏ) là được. Sau đó chúa hồng sám thành hai cấp Cấp trời (màu đẹp, dáng đều đặn, giống người), còn lại cấp đất. Cuối cùng đóng gói từng cần ta (600g) một. Loại tốt nhất 15 củ nặng 600g loại kém nhất 60 củ=600g.
b) Bạch sâm: Vì sâm này khô và trắng. Những củ sâm không đủ tiêu chuẩn chế hồng sâm thì đem chế bạch sâm.
Trước hết cắt bỏ rễ con, dùng cao tre cạo sạch vỏ mỏng, sau đó phơi nắng cho hơi khô, đem vào sửa thành hình người rồi lại phơi nắng cho khô hẳn. Thời gian phơi cả trước lẫn sau hết chủng 7 đến 15 ngày. Sau đó đóng gói như hồng sâm. Thường hồng sâm được đóng vào hòm gỗ, bạch sâm đóng vào hòm giấy.
Gần đây, tại nhiều nước, nhân sâm đã được phát triển bằng nuôi cấy mô để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về nhân sâm.
Thành phần hoá học
Nhân sâm được nhiều người nghiên cứu từ lâu. Nhưng kết quả còn chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà khoa học. Sau đây là một số kết quả: 1. Trong nhân sâm có loại saponin sterolic. Hỗn hợp saponin có tên là panaxozit trước đây gọi là panaquilon hay panakilon.
Chất glucozit hoặc hỗn hợp glucozit mang tên là panaxin cũng chưa được nghiên cứu sâu. Trước đây gọi là gensenin cũng là một loại saponin chưa tinh khiết lắm.
Ngoài ra còn có một tí tinh dầu 0,055-0,250 làm cho nhân sâm có mùi đặc biệt, trong đó chủ yếu là chất panaxen C15H24.
Các vitamin B1 và B2 các mendiataza.
Tro chừng 3-7% trong đó có chừng 53% axit photphoric.
Các tạp chất khác gồm nhựa và chất béo tổng số chừng 1,5%.
Các axit béo gồm hỗn hợp axit panmitic, stearic và linoleic. Hỗn hợp này mang tên axit panaxic.
Các chất khác gồm có phytosterin 0,029% tinh bột chừng 20%, chất pectin 16-23% và đường 4%..
Mới đây người ta lại thấy trong nhân sâm có hàm lượng germanium cao.
Tác dụng dược lý
Được nhiều người nghiên cứu và có rất nhiều tài liệu nói đến. Sau đây chúng tôi chỉ tóm tắt một số kết quả:
- Tác dụng trên hệ thần kinh
Từ xưa, tại Trung Quốc người ta đã biết thí nghiệm tác dụng làm giảm mệt của nhân sâm. Ví dụ trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trần (thế kỷ thứ 16), có ghi cách thử nhân sâm như sau: “Cho 2 người cùng chạy, một người có ngâm miếng nhân sâm, một người không ngâm, sau khi chạy độ 3 đến 5 dặm người không ngậm nhân sâm sẽ thỏ mạnh còn người có ngậm nhân sâm vẫn thờ như thường”.
Trong các năm 1949-1951 tại Liên Xô cũ, Abramova có thí nghiệm theo phương pháp cho chuột nhất lại nước thì thấy nhân sâm có tác dụng làm chuột đỡ mệt.
Năm 1947, Lazarev đã nghiên cứu và kết luận rằng nhân sâm có tác dụng hưng phấn thần kinh trung ương, dùng với liều điều trị có thể làm đỡ mệt, tăng hiệu suất công tác, so với thuốc phenamin thì tốt hơn.
Năm 1955, Drake theo phương pháp của Zacuxov đã chứng minh liều điều trị của nhân sâm có khả năng rút ngắn thời kỳ phản xạ tiềm phục của thần kinh và làm mau sự chuyển động của thần kinh.
Nhưng liều cao quá có thể gây hiện tượng quá trấn tĩnh (Chu Nhan-Chu Kim Hoàng, Trung Hoa y học tạp chí, 12-1956)
- Tác dụng trên huyết áp và tim
Các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ: Burkrat và Xakxopov (1947) và Kixelev (1948-1959) đã nghiên cứu nước sắc và cồn nhân sâm, kết luận rằng tác dụng của dung dịch nước và dung dịch rượu nhân sâm như sau: Kixelev dùng dung dịch 5%, 10% và 20% nhân sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ và mèo thấy tác dụng hạ huyết áp, nóng độ càng cao tác dụng ức chế trên tìm càng mạnh, nhưng nếu nồng độ thấp thì lại co bóp tim mạch và số lần bóp cũng tăng, do đó ông đã kết luận rằng nhân sâm có hai hướng tác dụng trên thần kinh thực vật Liều nhỏ có tác dụng như thần kinh giao cảm, liều lớn có tác dụng như thần kinh phế vị (nerf vague),
- Tác dụng trên hô hấp
Năm 1947 Burkrat và Xakkopov đã báo cáo dùng 0,3-0,5ml dung dịch nhân sâm 20% tiêm vào tĩnh mạch mèo thấy nhân sâm hưng phấn hô hấp
Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quốc trước đó đã tiêm vào tĩnh mạch thỏ chất ginsenin thấy liều nhỏ làm tăng hô hấp, liều cao có tác dụng ngược lại, nếu tiêm axit panaxic hay chất panaxen cũng thấy tác dụng như vậy.
Tuy nhiên ở trên mới chỉ thấy tác dụng khi tiêm còn chưa thấy tài liệu nghiên cứu tác dụng của việc uống nhân sâm đối với hô hấp.
- Tác dụng đối với chuyển hoá cơ bản.
Năm 1922 hai tác giả Nhật Bản. Hà Bộ Thắng Mã và Nội Đàng Hệ Bình đã nghiên cứu tác dụng của bột nhân sâm và chất tan trong còn của nhân sâm (uống và tiêm) đối với bệnh huyết đường quá cao nhân tạo trên thỏ, đều thấy có tác dụng rõ rệt làm hạ mức huyết đường xuống
Năm 1954 và 1956 một số tác giả Trung Quốc cũng xác nhận trong Trung Hoa nội khoa tạp chí và Trung Hoa y học tạp chí tác dụng hạ huyết đường của nhân sâm.
Trên lâm sàng người ta đã thấy (Khâu Thần Bài 1955) rằng nếu dùng nhân sâm chung với insulin thì có thể giảm bớt lượng insulin, thời gian hạ huyết đường được kéo dài hơn và chữa được bệnh tiểu đường.
- Tác dụng đối với sự sinh trưởng và phát dục của động vật (máu lạnh hoặc màu nóng, côn trùng). Cho uống hoặc tiêm thuốc chế bằng nhân sâm hoặc các chất lấy từ nhân sâm trên một số động vật so sánh với động vật không dùng nhân sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt.
- Tác dụng đối với sức chống đỡ bệnh tật
Những thí nghiệm của Daugoinikov (1950- 1952), Brekhman và Phruentov (1954-1957) và Abramov (1953) cho biết nhân sâm có tác dụng tăng sức đề kháng của động vật đối với tật bệnh.
- Độc tính của nhân sâm
Kixelev đã tiêm vào dưới da chuột nhất Iml dung dịch nhân sâm 20% thấy sau 10-12 giờ chuột chết với trạng thái “mất sắc”. Nhưng cho uống thì độc tính rất ít.
Công dụng và liều dùng
Nhân sâm là một vị thuốc cổ truyền trong đông y. Các sách cổ thường ghi nhân sâm bổ năm tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận) yêu tinh thần, định hơn phách, làm khỏi sợ hãi, trừ tà khí, sáng mắt, uống lau nhẹ mình, tăng tuổi thọ, chữa các chứng đau ruột, dạ dày, nôn mửa.
Cách dùng trong nhân dân như sau:
- Sâm thái mỏng, cho vào miệng ngầm và nhấm từng ít một, nuốt nước và cả bã.
- Thái mỏng, cho vào âm hay chén sứ. Thêm một tí nước đậy nắp. Đun cách thuỷ, uống nước. Sau đó lại thêm nước và đun cách thuỷ tiếp tục uống, làm như vậy cho đến khi hết mùi vị mới thôi. Ngày dùng 2-6g.
Theo tài liệu cổ, nhân sâm vị ngọt, hơi đắng, tính ôn (lá có vị đắng, hơi ngọt), vào 2 kinh tỳ và phế. Có tác dụng đại bổ nguyên khí, ích huyết sinh tân, định thần, ích trí. Dùng chữa phế hư sinh họ suyễn, tỳ hư sinh tiết tả, vị hư sinh nôn mửa, bệnh lâu ngày khí hư, sợ hãi, tiêu khát. Những người bệnh có thực tà không dùng được.
Sau đó do các công trình nghiên cứu về nhân sâm đặc biệt của Liên Xô cũ, Trung Quốc, nhân sâm được tây y công nhận và sử dụng coi như thuốc tây.
Dược thư Liên Xô xuất bản lần thứ 9 năm 1961 công nhận nhân sâm là vị thuốc chính thức trong y học Liên Xô.
Có thể dùng dưới dạng thuốc sắc 5 hay 10% với liều 15-30ml một lần, ngày dùng 3 lần, hoặc dưới dạng cồn nhân sâm với liều 15 giọt một lần, ngày uống 3 lần.
Vài đơn thuốc có nhân sâm trong đông y
- Độc sớm thang (đơn thuốc có một vị nhân sâm) chữa cơ thể quá suy nhược sau khi mất máu nhiều, thần kinh suy nhược:
Nhân sâm 40g. Nước 400ml (2 bát) sắc còn 200ml (1 bát), cho uống từng ít một, không kể thời gian. Uống xong cắn nằm yên.
- Sâm phụ thang chữa những trường hợp mạch suy, kiệt, mồ hôi ra nhiều, chân tay lạnh
Nhân sâm 40g (có thể 20g), chế phụ tử 20g (có thể dùng 10g), sinh khung 3 nhất, táo đen 3 quả, nước 3 bát (600ml) sắc còn 200ml (1 bát) chia làm nhiều lần uống trong ngày.
Những vị thuốc dùng thay nhân sâm
Trên thị trường hiện nay có nhiều vị dùng làm với tên nhân sâm. Ngoài các vị được giới thiệu kỹ ở sau như thổ cao ly sâm, bố chính sàm v… còn có vị thái tử sâm hay hài như sâm được vùng Giang Tô Trung Quốc dùng thay nhân sâm và cũng có khi đưa bán ở nước ta.
Đó là rễ cây Pseudostellaria raphonorrhiza (Hemsl). Pax thuộc họ Cẩm chướng Caryophyllaceae. Cây này là một loại cây cỏ nhỏ cao 7-15cm, chưa thấy ở nước ta. Thành phần hoá học và tác dụng được lý chưa được nghiên cứu. Có người mới phát hiện trong thái tử sâm có fructoza.
Dùng làm thuốc bổ, chữa trẻ con đổ mồ hôi trộm, kém ăn, với liều 8-12g một ngày.