Đào Lộn Hột (Quả Điều) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

211
Đào Lộn Hột
Đào Lộn Hột
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Đào Lộn Hột trang 570-571 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là quả điều, macadơ, giả như thụ, swai chanti (Campuchia).

Tên khoa học Anacardium occidentale L. (Cassavium pomiferum Lamk.).

Thuộc họ Đào lộn hột Anacardiaceae.

Mô tả cây

Đào lộn hột là một loại cây to, cao khoảng 8- 9m, lá mọc so le, cuống ngắn, phiến lá hơi hình trứng, nhẵn, dài, dài 10-20cm. Hoa nhỏ, trắng mùi thơm dịu, mọc thành chùy tận cùng. Quả khô, không tự mở, hình thận, dài 2-3cm, vỏ ngoài cứng, trên mặt có những hôm, cuống quả phình to thành hình trái lê hay hình quả đào, to bằng nắm tay, màu đỏ, vàng hay trắng, trong toàn bộ ta có cảm tưởng như phần cuống quả phình ra là quả và phản quả thật đính trên là hạt do đó có tên là “đào lộn hột” nghĩa là quả đào mà hột lại chui ra ngoài. Hạt hình thận, chứa dầu béo.

Đào Lộn Hột
Đào Lộn Hột

Phân bố, thu hái và chế biến

Đào lộn hột có lẽ vốn là một cây nguồn gốc những nước vùng nhiệt đới châu Mỹ, nhưng từ lâu đã được đưa đi trồng rộng rãi ở nhiều nước nhiệt đới châu Á như Ấn Độ, Việt Nam (miền Nam), Campuchia. Đào lộn hột sống được trên những đất pha cát mà nhiều cây khác không sống được. Rất nhiều bộ phận của cây đào lộn hội được khai thác để sử dụng: Phần cuống quả phình ra mà nhân dân vẫn thường gọi là quả được sử dụng trên thị trường với tên “táo ca giu” (Pomme de Cajon) được dùng tươi hay đóng hợp, phần quả thật (nhân dân gọi nhầm là hạt) được sử dụng trên thị trường thế giới với tên “hạt giẻ ca giữ” (Noix de Cajou), nhựa vỏ và thân cây đào lộn hột đều được sử dụng làm thuốc và làm thực phẩm.

Thành phần hoá học

Cuống quả (nhân dân gọi là quả) khi thật chín có chất thịt ngọt, hơi chua, mùi thơm như mùi dâu chín, chứa vitamin B, riboflavin và hàm lượng vitamin C rất cao: Gấp 10 lần trong chuối, 5 lần trong cam và chanh. So với quả màu đỏ, quả màu vàng chứa nhiều vitamin C hơn và ít riboflavin hơn. Ngoài ra còn chứa muối vô cơ, canxi, photpho và sắt.

Quả thực (nhân dân gọi là hạt)-Noix de Cajou hay Noix d’acajou gồm vỏ quả cứng chiếm khoảng 69%, nhân 26% còn lại là vô nhân Tất cả đều được sử dụng: Từ vỏ quả chiết bằng Ate cho hôm đào lộn hột (baume de cajou) thường gọi nhầm là dầu đảo lộn hột, vì đây không phải là chất béo mà là chất nhựa dầu (bôm). Bôm đào lộn hột là một chất lỏng sánh, màu nâu đen nhạt, rất hắc. Thành phần chủ yếu của bôm này là cardola và axit anacardic. Người ta cho cardol là hoạt chất chủ yếu của bôm đào lộn hột. Đây là một chất lỏng màu vàng đỏ nhạt, ra ngoài trời rất chóng chuyển thành nâu, và có tác dụng gây phồng giống như sâu ban miêu. Hơi của nó cũng có tác dụng kích ứng đối với mắt, gây ho, gây viêm đường hô hấp. Tuy nhiên nó không có tác dụng xấu đối với bộ máy tiêu hoá, người ta cho rằng vì nó không tan vào các dịch vị tiêu hoá.

Vỏ nhân là lớp vỏ mỏng phủ lên nhân. Thành phần chủ yếu của vỏ nhân là cardol và axit anacardic, do đó cần loại khỏi nhân khi dùng hạt.

Nhân hạt chứa 47,13% dầu 9,7% hợp chất nitơ; 5,9% tinh bột. Nhân ép nguội cho chất dầu béo tiêu thụ trên thị trường với tên “đầu Caraip” (huile des caraibes) màu vàng nhạt, không mùi, vị và các hằng số lý hoá gần giống như hằng số lý hoá của dầu hạnh nhân. Thành phần chủ yếu của dầu này là sitosterin là một phytostearin đặc biệt.

Vỏ thân cây đào lộn hột tươi chứa 4-7% tanin catechic.

Nhựa đào lộn hột: Khi khía lên vỏ thân cây tươi, một chất dịch chảy ra có vị chát chứa tanin catechic, cardol và axit anacacdic.

Thân một số cây đào lộn hột già hoặc có bệnh chảy ra một chất gồm hình giọt dài hay ngắn, màu vàng nhạt hay nâu nhạt, tan một phần trong nước lạnh, hầu như hoàn toàn tan trong nước nóng. Thành phần chủ yếu của chất gồm này bao gồm 8% arabin, dextrin, basorin, một ít đường, tanin catechic, cardol và axit anacacdic. Do chất cardol nên gồm này có tác dụng gây kích ứng.

Công dụng và liều dùng

Quả giả đào lộn hột (cuống quả) được xem như một nguồn vitamin C rất quan trọng dùng dưới hình thức “quả” tươi hay đóng hộp. Người ta thường ăn quả dưới hình thức thái thành tìm miếng mỏng, thêm muối, ớt (châu Á) hay theo đường (châu Mỹ). Từ “quả” tươi có thể ép được dịch ép vị ngọt, cho lên men thành một thứ rượu nhẹ thơm ngon có tác dụng lợi tiểu; dùng ngoài xoa bóp trong những trường hợp đau nhức, súc miệng chữa viêm họng, nhấm nháp để chốn nôn mửa.

Nhân đã loại hết vỏ nhân, ngon bùi như hạt dẻ hay hạt hạnh nhân, được dùng như hạt hạn nhân trong việc chế biến bích quy, kẹo, bánh kẹo sôcôla. Dùng tươi hay rang lên. Khi rang cần chú ý cho tỉnh dầu bay hết đi để tránh tác dụng kích ứng.

Bôm đào lộn hột dùng chữa chai chân, về loét, nứt nẻ chân.

Dầu nhân được dùng chế thuốc hay để ăn giống như dầu hạt dẻ và dầu hạnh nhân đắng

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!