Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Phân người trang 975 – 976 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là cứt người, nhân phẩn, hoàng long thang, hoàn nguyên thủy, phần thanh, nhân trung hoàng.
Tên khoa học Excrementum Hominis
Chú thích về tên hoàng là màu vàng, long là con rồng, thanh là thuốc sắc, vì phân người giống hình con rồng, màu vàng nên gọi như vậy cho thanh nhã; nhân là người, trung là trong, hoàng là màu vàng. Gọi phân người là chất màu vàng trong con người cũng là để cho thanh nhà. Hoàn là trở về, nguyên là nguồn gốc. ý nói từ phân bón cho cây lúa người ta ăn vào lại thải ra xem như trở về nguồn gốc.
Tại sao giới thiệu vị thuốc này ở đây?
Năm 1965, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch thời đó là Bộ trưởng Bộ y tế có giao cho một số cán bộ ở Viện chống lao nghiên cứu dùng phân người làm thuốc. Trước khi giao đề tài, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch có kể câu chuyện sau đây: Vào đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở các tỉnh phía * Nam (cuối 1945-đau 1946) một đơn vị ta bị ngộ độc vì ăn phải nấm độc. Các thay thuốc tây y cũng như đông y ở đơn vị đều bỏ tay. Khi bác sĩ đến thăm, anh em có hỏi ý kiến, nhưng bác sĩ cũng chịu. Trước hoàn cảnh khó khăn ấy, một bà cụ nông dân xin chữa. Trong lúc bế tắc ấy, anh em đồng ý để bà cụ chữa chạy giúp bộ đội. Bà cụ đi ra ngoài một lúc trở về chế thuốc và cậy miệng cho những người bị ngộ độc uống. Tất cả đều được cứu sống trước sự ngạc nhiên của những người thầy thuốc khoa học hiện đại. Nhưng mọi người còn ngạc nhiên hơn nữa khi hỏi bà cụ dùng thuốc gì thì bà cụ cho biết đã dùng cứt người khô đốt cháy, hòa với nước. Chắc chán nếu biết trước bà cụ sẽ dùng cắt người để chưa cho bộ đội, nhiều người không dám để bà cụ làm. Nhưng trước sự thật hiển nhiên, mọi người ngạc nhiên nhưng vẫn còn bán tín bán nghi. Phải đợi 20 năm sau, trước nhu cầu thuốc chống choáng cho bộ đội đánh giặc, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mới nghĩ đến tìm hiểu cơ sở khoa học của kinh nghiệm dùng vị thuốc quá độc đáo này của nhân dân vì bác sĩ nghĩ rằng, ngộ độc nấm là một trường hợp choáng.
Sau khi được nghe bác sĩ kể lại câu chuyện trên, với kinh nghiệm 20 năm tìm hiểu những bị quyết của y học cổ truyền Việt Nam, nhất là những bài thuốc gia truyền như vậy, chúng tôi tìm đọc bộ sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân viết và in từ thế kỷ 16 vì chúng tôi cho rằng hầu hết những bài thuốc còn lưu lại đến từ đều có ghi chép lại trong những tài liệu cổ. Bản dịch gồm hơn 2.000 từ với gắn 4 trang đánh máy. Đầu tháng 7/1985 chúng tôi còn được thấy bản dịch ấy được chép lại trong Số nghiên cứu của Viện chống lao. Ở đây chúng tôi chỉ trích dịch giới thiệu một số để gợi ý những ai muốn nghiên cứu thêm.
Công dụng chữa bệnh của phân người ghi trong tài liệu cổ
Qua tài liệu dịch nói trên, phân người ít nhất cũng đã được sử dụng chữa một số bệnh hiểm nghèo từ thế kỷ thứ 6.
Ngoài dạng phân khô đốt cháy, hòa nước uống còn có mấy dạng độc đáo sau đây:
- Hoàng long thang còn gọi là phần thanh hay hoàn nguyên thủy hoặc nhân trung hoàng Ở gần nơi thành thị, người ta dùng một cái ang bằng sành có nắp, bỏ phân người vào trong, để yên lâu năm sẽ được một thứ nước rất đen và đáng chữa được bệnh dịch và người gần chết.
- Nhân trung hoàng xem thêm ở vị cam thảo. Phân người chủ trị sốt dữ dội do thời khí sinh ra, phân người còn có tác dụng giải độc, nhiệt độc của bệnh thương hàn, đắp vào nơi định thũng trong một ngày chân đinh thường vỡ ra. Còn chữa cốt chưng lao phục (trong xương đau nhức), ung thũng phát hối, sởi đậu không mọc được.
Trong tài liệu có giới thiệu 33 đơn thuốc chữa rất nhiều bệnh hiểm nghèo. Ở đây chúng tôi cũng chỉ xin trích giới thiệu một vài đơn chính:
- Chữa ngộ độc sắn, khoai và nấm độc trong núi: Nếu người bị ngộ độc sắp chết cho uống một thang phản là sống (theo sách Trửu hậu phương).
- Chữa ngộ độc nem, thịt thì đốt phân thành than uống với rượu (cũng trích ở Trửu hậu phương).
- Tâm phúc cấp thống (vùng tim và vùng bụng đau quận dữ dội). Dùng phân người nghiên đều với mật, uống với nước.
Thành phần hóa học của trò phân người
Với sự chỉ đạo nghiên cứu của Phạm Ngọc Thạch, năm 1965 khoa sinh hóa của Viện chống lao đã phân tích than phân người thấy toàn bộ gồm những muối kali với tỷ lệ kali clorua 2g, kali cacbonat 0,44g, kali photphat axit 0,62g. kali sunfat 1,85, KOH 0,25 (0,55g). Từ kết quả nghiên cứu này Viện chống lao cho chế các muối trên thành 100ml thuốc tiêm đóng ống 5ml mang tên NT-9 (nhân trung, pH 9) thí nghiệm cho chó trước khi thử cho người để chữa choáng
Tiếc rằng sau khi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch mất đi không ai tiếp tục công trình nghiên cứu này.
Chúng tôi ghi chép lại vị thuốc này ở đây với ý nghĩ chúng ta cần hết sức thận trọng khi thừa kế hoặc phê phán những kinh nghiệm chữa bệnh dùng thuốc của cha ông.