Huyền Sâm – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

264
Huyền Sâm
Huyền Sâm
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Huyền Sâm trang 820 – 821 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là hắc sâm, nguyên sâm.

Tên khoa học Scrophularia buergeriana Miq. Thuộc họ Hoa mõm chó Scrophulariaceae.

Huyền sâm (Radix Scrophulariae) là rễ phơi hay sấy khô của cây bắc huyền sâm Scrophularia buergeriana Miq. Có tài liệu nói là Scrophularia oldhami Oliv hoặc rễ cây huyền sâm Scrophularia ningpoensis Hemsl.

Tên huyền sâm vì vị thuốc giống sâm và có màu đen (huyền là đen).

Mô tả cây

Cây bắc huyền sâm là một loại cỏ cao 1,5m đến 2m. Thân vuông, màu xanh có rãnh dọc, 4 góc hơi phỏng lối ra. Lá hình trứng, đầu nhọn, mọc đối chữ thập, cuống ngắn, phiến lá dài 3- 8cm, rộng 1,8-6cm, mép có răng cưa nhỏ và đều. Lá phía dưới to hơn, cuống dài hơn (2-3cm). lá phía trên nhỏ hơn, cuống ngắn (chừng 5mm). Hoa mọc thành chùm với cuống ngắn trông như bóng ở đầu ngọn hoặc đầu cành. Hoa hình ống hơi phình ở giữa, thắt ở phía trên, dài 18mm, rộng 3-4mm, trên mép có 5 cánh 1 cánh cao hơn. Nhị 4. Hoa màu trắng vàng nhạt.

Cây huyền sâm Scrophularia ningpoensis khác cây bắc huyền sâm ở hoa mọc thành tán, màu tím.

Huyền Sâm
Huyền Sâm

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây mới di thực vào nước ta. Nay phát triển ở nhiều nơi. Trước kia nhập của Trung Quốc.

Trống bằng hạt vào mùa xuân, mỗi hecta cần chừng 1.5kg hạt giống. Thu hoạch rễ vào tháng 10-11. Mỗi hecta cho chừng 5 tấn rễ tươi.

Rễ đào về, cắt bỏ đầu, mắm, rễ con, rửa sạch đất, phơi nắng. Tôi giữ ấm cho rễ; sau một thời gian, màu rễ sẽ sẫm lại. Sau đó phơi cho thật khô.

Thành phần hoá học

Trong huyền sâm có chất scrophularin. Có tác giả lại nói trong cao rượu chế từ huyền sâm có phytosterola, ancaloit, tinh dầu, axit béo, saparagin và chất đường.

Tác dụng dược lý 

Năm 1936, hai tác giả Kinh Lợi Bàn, Thạch Nguyễn Cao có chế cao lỏng huyền sâm (rượu) rồi nghiên cứu tác dụng trên tim, huyết quản, huyết áp, hô hấp, huyết đường và giảm sốt đối với động vật, thu được những kết quả sau đây:

  1. Tác dụng trên tim.

Pha cao lỏng huyền sâm với nước Locke Ringer rồi cho tác dụng trên tim ếch cô lập với nóng độ thấp (0,01-0,02%) thấy sức bóp của tim mạnh lên, với nồng độ trung bình (0,1%) thấy lực của tim yếu đi, nhịp đập trở nên chậm, với nồng độ cao (10%) làm cho tim ngừng đập.

  1. Tác dụng lên mạch máu.

Huyền sâm gây dẫn mạch. Dùng cao lỏng huyền sâm tiêm vào tĩnh mạch thỏ đánh mê, nhận xét thấy nếu dùng liều nhỏ (1-4ml) huyết áp hơi tăng, sau hạ xuống và cuối cùng trở lại bình thường, liều lớn (10ml) làm cho huyết áp tạm thời hơi hạ thấp, biến độ hô hấp tăng mạnh.

  1. Tác dụng giảm sốt.

Gây sốt cho thỏ bằng tiêm colibacille sau đó tiêm dưới da dung dịch huyền sâm (5ml/kg thể trọng) không thấy tác dụng hạ sốt.

  1. Tác dụng trên lượng huyết đường.

Định lượng huyết đường của thỏ bằng phương pháp Denigea, sau tiêm dung dịch huyền sâm vào dưới da. (5ml/kg thể trọng) sau đó cách mỗi giờ định lượng đường trong mẫu một lần, làm như vậy 5 lần: Thí nghiệm trên 4 con thỏ tiêm huyền sâm, thấy lượng đường huyết thấp hơn so với mức đường trong máu bình thường là 15mg/100ml máu.

  1. Tác dụng kháng sinh.

Theo Trịnh Vũ Phi (Trung Hoa y học tạp chí, 1952) huyền sâm có tác dụng kháng sinh đổi với nhiều loài vi trùng bệnh ngoài da.

Công dụng và liều dùng

Huyền sâm được dùng làm thuốc mạnh tim, giảm sốt, chống viêm trong các bệnh viêm cổ họng, viêm amidan, lở loét trong miệng.

Liều dùng 10-12g dưới dạng thuốc sắc.

Theo tài liệu cổ, huyền sâm vị đắng, mặn, tính hơi hàn, vào 2 kinh phế và thận. Có tác dụng từ âm, giáng hỏa, trừ phiền, chỉ khát, giải độc, lợi yết hầu, nhuận táo, hoạt trường. Dùng chữa các bệnh nhiệt, phiền khát, điên cuồng, yết hầu sưng đau, ung thũng, tràng nhạc, táo bón. Người tỳ hư tiết tả không dùng được.

Đơn thuốc có huyền sâm

Chữa viêm cổ họng, viêm amidan (đơn của Diệp Quyết Tuyển).

Huyền sâm 10g, cam thảo 3g, cát cánh 5g, mạch môn đông 8g, tháng mà 3g, nước 600ml. Sắc còn 200ml chia làm nhiều lần uống trong ngày hoặc làm thuốc súc miệng. 

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!