Dạ Minh Sa (Phân Con Dơi) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

169
dạ minh sa
dạ minh sa
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Dạ Minh Sa trang 969 – 970 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là phân con dơi, thiên thủ phẩn, biên bức phần.

Tên khoa học Excrementum Vespertilii hay Facces Vespertiliorum

Vì phân con dơi ban đêm trong nhấp nhánh như cát cho nên gọi là dạ minh sa (dạ là đêm, minh là sáng, sa là cát).

Nguồn gốc và chế biến

Người ta dùng phân của nhiều loài dơi. Thường ở nước ta có những loài Vespertilio superans The mas có lỗ mũi bán nguyệt, chi Kerevosla có lỗ mũi tròn, loài dơi nhà Pachyotus kuhli thuộc họ Vespertilionidae, loài Rhinolophus ferrum equinum Schreber thuộc họ Dơi có là mũi Rhinolophidae (Hình 726).

Tại Trung Quốc người ta còn dùng phân của loài dơi tai to Plecotus auritus L. thuộc họ Dơi tai to Vespertilionidae (Rhinlophidae).

Việc khai thác dạ minh sa có thể tiến hành quanh năm. Thường người ta vác đuốc, mang bao tải và cào vào những hang có dơi ở, cao phân dơi vào bao, đem về loại bỏ tạp chất, phơi khô là được. Khi dùng người ta thường sao cho thơm. Trong dạ minh sa người ta thấy ngoài phân ra có những bộ phận, những sau họ con dơi ăn mà chưa tiêu hóa được như mắt muỗi, cánh, mảnh thân, mảnh chân, rằng những sâu bọ v.v…

Tại những vùng không có hang dơi thiên nhiên, đặt biệt một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, không rõ từ bao giờ đã xuất hiện phong trào “nuôi dơi lấy phân”. Nói “nuôi dơi” không hoàn toàn đúng, vì người ta có cho dơi ăn uống gì đâu? Người ta chỉ làm một cái “dàn” cho dơi đến ở qua lúc mệt mỏi, và “trả công” cho người làm “dàn” bằng một đống phân dơi. “Dàn đới” hay “chuồng đơn” thực tế chỉ là một số cọc tre chôn chặt xuống đất theo hai hàng, trên khép lại hình núi, cao 5-7m. Việc chôn những cọc tre phải thật sâu, thật chắc nếu không đến mùa nước lớn, “chuồng” hay “dàn” dễ bị sụp đổ, đè dơi chết. Trên đỉnh các cọc tre phải lợp và treo dây lá cây thốt nốt. Những lá thốt nốt này phải xếp đủ đầy, nhưng phải đủ thoáng và hợp vệ sinh để rắn lục và rệp khỏi hại dơi. Sau khi làm “chuồng dơi”, việc trước hết là kiếm cho được vài con “dơi chúa” bỏ vào lồng treo trong “chuồng”. Con dơi chúa sẽ gọi bầy đàn dơi đến cùng sinh sống như một đại gia đình. Để giữ vệ sinh, an toàn cho dơi, thường xuyên cần thay lá và phát quang xung quanh chuồng để dơi khỏi sợ rắn lục, rếp mà bỏ đi nơi khác. Đến tham quan chuồng dơi ở xã Mỹ Đồng huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, chúng ta có thể thấy tại đây hầu như nhà nào cũng dựng 2-3 dàn dơi ở sau nhà, người ta đã tính mỗi chuồng dơi, mỗi ngày cho một gia phân dơi, trị giá 18.000d (5/1984), có người còn tính, mỗi năm, mỗi chuồng dơi, sau khi trừ mọi khoản chi phí còn được một cây vàng, tương đương trống thu hoạch 4-5 công lúa.

Nhưng hiện nay những người nuôi dơi lấy phân ở đồng bằng sông Cửu Long đang bàn khoản trước phong trào thịt đơn thành một món ăn đặc sản. Hai nghề lại có quyền lợi trái ngược nhau.

dạ minh sa
dạ minh sa

Thành phần hóa học 

Trong Dạ Minh Sa người ta phân tích thấy các chất như ure, axit uric và một lượng nhỏ vitamin A.

Công dụng và liều dùng

Dạ minh sa là vị thuốc chỉ thấy dùng trong nhân dân để làm thuốc chứa những bệnh về mắt (thong manh, không trông thấy gì), quáng gà, ngoài ra còn dùng chữa trẻ con cam tích, kinh phong, có khi đốt lên cho uống để cho ra những thai chết trong bụng.

Tính chất ghi trong các sách cổ là dạ minh sa vì cay, hàn, không có đốc, vào can kinh, có tác dụng hoạt huyết. Khi người ta đau mắt là do can (gan) có tính huyết xông lên mất cho nên dùng dạ minh sa để chữa gan. Phàm những trường hợp hư hàn không dùng được.

Ngày dùng 3 đến 6g dưới hình thức thuốc sắc hay thuốc viên.

Đơn thuốc có dạ minh sa, dung trong đông y

  1. Chữa thong manh, quảng gà, mắt khô, mà v.v… (đơn thuốc kinh nghiêm của Diệp Quyết Tuyến).

Dạ mình sa 5g (bọc vào lụa hay vải), cốc tinh thảo 6g, quyết minh tử 10g, mặt mộng hoa 6g. cam thảo 3g, nước 600mg, sắc bỏ bã chia 3 lần uống trong ngày.

  1. Chữa trẻ con quảng gà

Dạ minh sa sao vàng, nghiền nhỏ hòa với một lớn, viên bằng hạt đậu xanh dùng cho trẻ con quáng gà uống, ngày uống 4 đến 6 viên, dùng nước cơm hay nước cháo để chiêu thuốc.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!