Cây Xuyên Khung – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

367
Xuyên Khung
Xuyên Khung
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Xuyên Khung trang 671-674 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là khung cùng, tang kỵ.

Tên khoa học Ligusticum wallichii Franch.

Thuộc họ Hoa Tán Apiaceae (Umelliferae).

Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên khung.

Trong con người, cái đầu được coi là bộ phận cao nhất, như vòm trời. Vị thuốc này chuyên trị các chứng về đầu, não, do đó có tên (khung: cao, cùng: chỗ cuối cùng). Tên xuyên khung vì vị thuốc nguồn gốc ở tỉnh Tứ Xuyên. Hiện đã di thực được vào nước ta.

Mô tả cây

Xuyên khung là một cây thuộc thảo, sống lâu năm, thân mọc thẳng trong ruột rỗng, mặt ngoài có đường gân dọc nổi rõ. Lá mọc so le, kép 3 lần, cuống là đài 9-17cm, phía dưới ôm lấy thân, 3 đến 5 đối lá chét, cuống lá chét dài,

phiến lá chét rách sau, khi và có mùi thơm. Hoa họp thành tán kép, cuống tấn phụ ngắn chừng 1cm, hoa nhỏ, màu trắng. Song bế quả, hình trứng.

Xuyên Khung
Xuyên Khung

Phân bố, thu hái và chế biến

Xuyên khung chủ yếu được trồng tại tỉnh Tử Xuyên, còn mọc ở Vân Nam, Quí Châu (Trung Quốc).

Đã di thực được vào nước ta. Tuy nhiên tại Sapa (Lào Cai) có đồng bào nói cây đó có sẵn tại tỉnh này từ trước. Nhưng dù sao cũng chỉ mới được phát triển trong vòng những năm gần đây. hiện nay được trồng trên quy mô lớn. Cây ưa những nơi cao, có khí hậu mát như Sapa, việc trồng thí nghiệm tại đồng bằng chưa thành công.

Xuyên khung ưa đất tốt, nhiều mùn, có pha cát. Trồng bằng mắt cắt ở thân ra, mỗi bên mắt để chừng 1cm. Có thể trồng bằng mẫu thân rễ, nhưng trồng bằng mắt thì củ có hình khối tròn và đẹp.

Mùa trồng tốt nhất là cuối xuân, nếu trồng muộn quá, cây chưa kịp tốt và khỏe trước mùa đông tới. Cay trống sau hai năm mới bắt đầu thu hoạch. Củ đào về, cắt bỏ cọng và rễ nhỏ, rũ sạch đất cát, phơi khô chỗ thoáng gió, nếu sấy, phải sấy ở nhiệt độ thấp cho khỏi bay mất nhiều tinh dâu.

Năng suất một hecta là 2 tấn củ khô.

Thành phần hoá học

Theo Kha Vinh Đường và Tăng Quảng Phương, 1957 (Hoá học học báo, 23 (4): 246- 249) thì trong xuyên khung Ligusticum wallichii có 4 chất chủ yếu sau đây:

Một ancaloit dễ bay hơi, công thức C27H37N3

Một axit C10H10O4, với tỷ lệ chừng 0,02 gắn giống axit ferulic trong a nguỷ (Ferula asa-foetida L. thuộc họ Umbelliferae).

Một chất có tính chất phenola với công thức C24H46O4, hoặc C23H44O4., độ chảy 108°C.

Một chất trung tính có công thức C26H28O4, độ chảy 98°C.

Trong tinh dầu xuyên khung, người ta đã xác định được một chất lacton rất giống chất cnidium lacton đã tìm thấy trong một loại khung khác Cnidium offcinale Makino.

Tác dụng dược lý

Nhiều tác giả đã nghiên cứu tác dụng được lý của xuyên khung. Sau đây là một số kết quả chính:

  1. Tác dụng đối với trung khu thần kinh. Theo Thụ Thượng Sư Thọ (1933), tỉnh dấu xuyên khung với liễu nhỏ có tác dụng ức chế đối với hoạt động của đại não, nhưng đối với trung khu hô hấp, trung khu vận mạch và trung khu phản xạ ở tuỷ sống thì lại có tác dụng hưng phấn, kết quả làm cho con vật một phần yên tĩnh, tự động vận động giảm xuống, nhưng mặt khác làm cho huyết áp tăng cao, hô hấp cũng tăng, cơ năng phản xạ cũng tăng, nhưng nếu dùng liều quá cao thì đại não bị tê liệt mạnh, các trung khu và phản xạ tuỷ sống có thể bị ức chế do đó huyết áp hạ xuống, nhiệt độ cơ thể giảm xuống, hồ hấp khó khăn, vận động có thể tê liệt và chết.
  2. Tác dụng đối với tuần hoàn: Theo Thụ Thượng Sư Thọ (1933), tinh dầu của xuyên khung có tác dụng tê liệt đối với tim làm cho các mạch máu ngoại vi giãn ra, liều lớn có thể làm cho huyết áp hạ xuống (đã nói ở trên), phải chẳng có liên quan với tác dụng này.

Hai tác giả khác Kinh Lợi Bản và Thạch Nguyễn Cao đã dùng cồn 70 và nước chiết hoạt chất trong xuyên khung mua của hiệu thuốc Đồng Nhân Đường (Bắc Kinh) chế thành dung dịch 10%, rồi tiêm vào tĩnh mạch chó và thỏ gây mê, thì thấy huyết áp hạ xuống rõ rệt, hai tác giả này cho rằng tác dụng này có liên quan tới ảnh hưởng của trung khu thần kinh.

Lý Quảng Tuý và Kim Âm Xương (1956) đã nghiên cứu 27 loại thuốc đông y đối với huyết áp (thí nghiệm trên chó và mèo đã gây mê) thì xuyên khung là một vị có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài dù tiêm mạch máu hay tiêm bắp thịt cũng có tác dụng như nhau (Trung Quốc sinh lý khoa học hội, 1996).

  1. Tác dụng đối với cơ trơn: Kinh Lợi Ban và Thạch Nguyên Cao (1934) đã dùng dung dịch nước của xuyên khung thí nghiệm trên tử cung cô lập của thỏ đã có thai, thấy với liều nhỏ dung dịch nước xuyên khung có tác dụng kích thích co bóp của tử cung thỏ có thai, cuối cùng đi đến hiện tượng co quắp, ngược lại nếu dùng liều lớn, tử cung tê liệt và đi đến ngừng co bóp.

Các tác giả còn thí nghiệm tiêm dung dịch xuyên khung liên tục một thời gian cho thỏ và chuột trắng có chửa thì thấy cái thai chết trong bụng mà không đẩy ra được. Các tác giả cho rằng vì xuyên khung gây co bóp tử cung, ảnh hưởng tới dinh dưỡng của thai làm cho thai chết. Các tác giả còn cho rằng vì xuyên khung làm dãn mạch máu cho nên không làm cho cầm máu được. Cổ nhân cho rằng xuyên khung có tác dụng điều trị những phụ nữ sau khi sinh nở mà bị băng huyết là do xuyên khung có khả năng làm co tử cung, làm cho những mạch máu ở vách tử cung áp chặt vào vách tử cung mà gây cảm máu.

Kinh Lợi Bản và Thạch Nguyên Cao còn nghiên cứu tác dụng của dung dịch nước xuyên khung trên mẫu ruột cô lập (ruột thỏ và chuột bạch) thì thấy nếu dùng liều cao, sự co bóp bị hoàn toàn ngừng hẳn không khôi phục lại được; nếu dùng liễu nhỏ thì làm cho mẫu ruột co bóp dẫn dẫn mà không có khả năng làm cho ngừng hån.

  1. Tác dụng kháng sinh: Theo báo cáo của Lưu Quốc Thanh và Trương Duy Tây, 1950 (Trung Hoa y học tạp chí, 68: 307-312) thì xuyên khung có tác dụng kháng sinh đối với nhiều loại vi trùng như vị trùng thương hàn, phó thương hàn, vi trùng sinh mủ, thổ tả, vi trùng ly Sonner

Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ, xuyên khung có vị cay, tính ôn, vào 3 kinh can, đởm, và tâm bào. Có tác dụng đuổi phong, giảm đau, lý khí hoạt huyết dùng chữa kinh nguyệt không đều, đầu nhức mắt hoa, ngực bụng đầy trướng, bán thân bất toại, chân tay co quắp, ung thư. Những người âm hư hoả vượng không dùng được.

Xuyên khung là một vị thuốc hay được dùng chữa những triệu chứng nhức đầu, hoa mắt, huyết áp cao, phụ nữ sau khi sinh nở bị dong huyết mãi không ngừng.

Còn dùng trong những trường hợp đau dạ dày hay đau đớn khác và kinh nguyệt không đều.

Ngày dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay ngâm rượu.

Đơn thuốc có xuyên khung

  1. Thuốc chữa nhức đầu, chóng mặt:

Xuyên khung 3g, tế tân 2g, hương phụ 3g. nước 300ml, sắc còn 100ml. Chia 3 lần uống trong ngày.

  1. Đơn thuốc chữa thiên đầu thống, ngạt mũi, mắt mờ:

Xuyên khung 12g, kinh giới 12g, bạc hà 24g, phòng phong 4g, tế tân 3g, khương hoạt ống, bạch chỉ 6g. Các vị trên tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi lần uống 6g bột, dùng nước chè mà chiêu thuốc.

  1. Đọc vị xuyên khung tấn chữa thiên đầu thống, phụ nữ sau khi để nhức đầu:

Xuyên khung tán nhỏ. Dùng nước chè chiêu thuốc. Ngày uống hai lần, mỗi lần uống 4 đến 6g.

Chú thích:

  1. Vị xuyên khung được nhiều tác giả xác định với tên khoa học khác nhau. Ví dụ Lưu Mà Đạt Phu đã xác định với tên Cnidium officinale Makino (Hoà hán được dụng thực vật, 132, 1940), Lý Thừa Cổ (Sinh được học, 216, 1952) đã xác định là Conioselinum unvittatum Turcz. Tuy nhiên năm 1960, Lý Thừa Cổ đã xác định lại là Ligusticum wallichii (Trung Quốc được dụng thực vật đó giám).

Chúng tôi theo tài liệu là tập Trung được chi quyển I (Bắc Kinh, 1961), vì theo sự mô tả và hình vẽ giống cây xuyên khung ta đang trồng hơn cả. Ngay trong tập này các tác giả cũng giới thiệu thêm một cây nữa mà một số tỉnh Trung Quốc cũng dùng với tên xuyên khung hay cao bản, hoặc tây khung. Tên khoa học của cây này là Ligusticum sinense Oliv.

Tại Sapa, nhân dân thường trồng cả hai loài: Loài xuyên khung Ligusticum wallichii có lá nhỏ, còn có tên là tang kỵ.

Loài Ligustcum sinense Oliv, còn có tên là mùa chua có lá lớn hơn lá xuyên khung.

  1. Về thành phần hoá học, các tác giả Lưu Mê Đạt Phu và Mộc Thông Hùng Tây Bộ (1940) có giới thiệu về thành phần của xuyên khung Cnidium officinale như sau: Trong thân rễ xuyên khung Cnidium officinale có chừng 1-2% tinh dầu. Thành phần chủ yếu trong tinh dầu xuyên khung này là cnidium axit C12H20O3 este cnidium C12H19O2-O-C10H17 tinh thể cnidium lacton C12H18O2 axit sedanonic C12H18O3, một chất rượu C10H17OH và một chất phenol.

Xem vậy, ta thấy cần kiểm tra lại tên thực vật và thành phần hoá học của những vị xuyên khung ta dùng vì nguồn gốc nhập khác nhau, chất lượng có thể khác nhau.

Trong cây cao bản Ligusticum sinense chỉ mới biết có tinh dầu. Thành phần của tính dầu và hoạt chất khác chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!