Cây Nhàu (Cây Ngao, Nhầu Núi) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

326
Cây Nhàu
Cây Nhàu
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Cây Nhàu trang 306-307 tải bản PDF tại đây.

Còn có tên Cây Ngao, Nhầu Núi, Giầu. 

Tên khoa học Morinda citrifolia L. 

Thuộc họ Cà phê Rubiaceae.

Mô tả cây

Cây nhàu là một cây cao chừng 6-8m, thân nhẫn, thường mọc hoang ở những nơi ẩm thấp dọc bờ sông bờ suối.

Cây có nhiều cành to, lá mọc đối hình bầu dục, nhọn ở đầu, dài 12-15cm. Hoa nở vào tháng 1-2. Quả chín vào tháng 7-8. Quả hình trứng, xù xì, dài chừng 5-6cm, khi non có màu xanh nhạt, khi chín có màu trắng hoặc hồng, mùi nồng và cay. Ruột quả có một lớp cơm mền ăn được, chính giữa có một nhân cứng. Nhân dài chừng 6-7mm, ngang chừng 4-5mm, có 2 ngăn chứa 1 hạt nhỏ mềm

Cây Nhàu
Cây Nhàu

Phân bố, thu hái và chế biến

Thấy nhiều ở miền Nam nước ta, chưa thấy ở miền Bắc. Theo Pételot có cả ở miền Bắc. Mới đây đã tìm thấy ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Có thể trồng dễ dàng ở các tỉnh miền Bắc nước ta. Người ta dùng lá, quả, vỏ, rễ làm thuốc. Rễ hay dùng nhất dưới dạng phơi hay sấy khô. Các bộ phận khác dùng tươi.

Thành phần hóa học

Vỏ rễ chứa glucozit anthraquinon gọi là morindin C28H30O15, có tinh thể hình kim màu vàng, tan trong nước sôi, ít tan trong nước lạnh, không tan trong ete, tan trong các chất kiềm để cho màu vàng cam.

Một số tác giả (1961, J. Sci. Industr. Res. 7. 331-333) đã xác định trong cây nhàu không phải chỉ có một chất anthraglucozit: morindin mà là một hỗn hợp gồm nhiều chất anthraglucozit như: damnacantal hay 1-metoxy-2-focmyl-3- oxyanthraquinon, chất l-metoxyrubiazin hay 1- metoxy-2-metyl-3-oxyanthraquinon, chất al- izarin, chat morindon hay 1-5-6-trioxy-2- metylanthraquinon và chất l-oxy-2-3-dimetoxyanthraquinon.

Các bộ phận khác chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Năm 1982, Đàm Trung Bảo (Đại học dược Hà nội) đã phát hiện trong nhàu có nhiều chất selenium.

Tác dụng dược lý

Trên súc vật thí nghiệm, rễ cây nhau tỏ ra có những tác dụng sau đây:

  1. Nhuận tràng nhẹ và lâu dài.
  2. Lợi tiểu nhẹ.
  3. Làm êm dịu thần kinh trên thần kinh giao cảm.
  4. Hạ huyết áp.
  5. Độ độc không đáng kể, và không gây nghiện.
  6. Công dụng và liều dùng

Rễ nhàu được dùng ở miền Nam làm thuốc chữa bệnh cao huyết áp (bác sĩ Đặng Văn Hồ, Khoa học phổ thông 1-8-54). Nhân dân dùng rễ nhàu sắc uống hằng ngày thay nước chè, uống hằng tháng. Một số hiệu thuốc đã chế thành cao rễ nhàu. Liều dùng hằng ngày 30- 40g rễ, sắc và uống thay nước chè trong ngày. Sau chừng 15 hôm sẽ thấy kết quả. Nhưng phải uống tiếp tục 2-3 tháng liền sau đó tiếp tục uống với liều giảm xuống.

Công dụng trong nhân dân: Quả nhàu ăn với muối dễ tiêu, nhuận tràng, làm thuốc điều kinh, trị băng huyết, bạch đới, ho, cảm hen, thũng, đau gần, đái đường (đái tháo). Nướng chín ăn để chữa lỵ.

Rễ nhàu nhuộm màu đỏ quần áo, vải lụa. Nhân dân Việt Nam thái nhỏ, sao vàng ngâm rượu, uống chữa bệnh nhức mỏi, đau lưng (có thể dùng quả nhàu non, thái mỏng sao khó thay rễ này).

Lá nhàu giã nát, đắp chữa mụn nhọt, làm chóng lên da. Sắc uống chữa lỵ, đi ngoài, chữa sốt và làm thuốc bổ. Liều dùng 8-10g sắc với 500ml nước chia làm 2 lần uống trong ngày (chữa những người hay nhức đầu chóng mặt). Lá nhàu còn dùng nấu canh lươn để ăn cho bổ.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!