Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Cây Mã Tiên Thảo trang 84 – 85, tải bản PDF tại đây.
Còn có tên là cỏ roi ngựa, Verveine (Pháp).
Tên khoa học Verbena officinalis L.
Thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae.
Người ta dùng toàn cây mã tiên thảo (Herba Verbenae) tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Tên mã tiên do chữ mã = ngựa, tiên = roi, vì cỏ dài, thẳng, có đốt như roi ngựa, do đó mà đặt tên như vậy.
Châu Âu (Pháp) dùng với tên Verveine.
Mô tả cây
Cây loại cỏ nhỏ, sống dai, cao từ 10cm đến Im, thân có 4 cạnh. Lá mọc đối, xẻ thùy lồng chim. Hoa mọc thành bông ở ngọn, hoa nhỏ màu xanh, lưỡng tính, không đều
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây này mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Hái vào mùa thu khi cây đã ra hoa và một số hoa đã bắt đầu kết quả. Dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Thành phần hóa học
Toàn cây chứa một glucozit gọi là verbenalin hay verbenalozit C17H24O10 kết tinh không màu, không mùi, vị đắng, thủy phân sẽ cho glucoza và verbenalola C11H14O5
Verbenalin + H2O = verbenalola + glucoza
Ngoài ra còn có các men invectin và men emunxin. Do đó khi phơi sấy, tỷ lệ glucozit có thể giảm tới hơn 25%.
Tác dụng dược lý
Mã tiên thảo ít độc. Theo Holste, mã tiên thảo có thể làm máu chống đông.
Công dụng và liều dùng
Tính chất theo đông y: Vị đắng, hơi hàn, vào 2 kinh can và tỳ. Tác dụng phá huyết, sát trùng, thông kinh. Dùng chữa bệnh lở ngứa hạ bộ, tiêu chướng. Trước đây nhân dân châu u rất hay dùng vị thuốc này, coi như có khả năng chữa bách bệnh. Hiện nay chỉ còn dùng làm thuốc xoa bóp.
Nhân dân ta hay dùng cỏ roi ngựa tươi giã lấy nước uống, bã đắp lên mụn nhọt như sưng vú, hầu bối.
Còn dùng uống và rửa chữa bệnh ngứa ở hạ bộ, Ngày dùng 6-12g khô tương ứng với 25-50g tươi.