Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Kim Anh trang 909-911 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là thích lê tử, đường quân tử.
Tên khoa học Rosa laevigata Michx.
Thuộc họ Hoa hồng Rosaceae.
Kim anh tử (Fructus Rosae laevigatae) là quả giả hay đế hoa chín phơi hay sấy khô hoặc loại bỏ hết quả thực (ta vẫn gọi nhầm là hạt) rồi mới phơi hay sấy khô của cây kim anh (Rosa laevigata).
Kim là vàng, anh là cái chén, vì quả giả giống cái chén, có màu vàng do đó có tên gọi như vậy.
Mô tả cây
Cây kim anh là một loại cây mềm, mọc thành bụi, xen lẫn với những cây khác như sim, tre vv.. Cây có thể mọc dài tới 10m. Thân cây có đường kính tới 2cm, thân và cành đều có gai mọc cúp xuống phía gốc như cây hoa hồng. Mỗi mẩu thân thường có 1-2 cành vươn ra rất dài, có thể tới 2-3m. Lá có lá kèm và gồm 3 lá chét. Lá chét hình trứng, 2 đầu nhọn, mép có răng cưa, lá chét giữa dài và rộng hơn. Đừng nhầm với cây tầm xuân có số lá chét nhiều hơn (5-7). Hoa màu trắng, đơn độc, mọc ở đầu cành, khi nở có đường kính rộng tới 5-8cm, nhị màu vàng. Đế hoa lớn, hình chén có gai nhỏ, nhọn, cuống hoa dài 1,5-3cm. Lá đài 5, tràng cũng có 5 cánh, nở vào cuối xuân sang hạ (các tháng 2, 3), quả chín vào các tháng 8, 9, 10.
Quả giả (thực ra đó là để hoa) tươi có màu vàng đỏ bóng, cứng hình cái chén. dài 1,5-2cm có cuống dài 2-3cm, phía trên còn sót lại 3-5 lá đài bao vây nhị và vòi hơi nổi phồng lên ngoài mặt có nhiều gai. Khi khô có màu nâu đỏ sẫm hay nhạt, sau khi chế biến, trên mặt có những vết sẹo của gai đã rụng đi. Trong “quả” có rất nhiều lồng và “hạt” (thực ra đây mới là quả) hình thon, dẹt, dài 6-7mm, màu vàng nâu nhạt có góc rất cứng. Có hạt có cuống, có hạt không có cuống.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang trên các đồi ở nước ta, chủ yếu ở một số tỉnh miền núi biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn, tại đây một số người trồng làm hàng rào vì cây có nhiều gai. Còn thấy ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hà Nam, Giang Tô, Triết Giang, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên).
Trồng bằng cách dâm cành hay đào các cây con có sẵn trên đồi về. Hiện nay chưa thấy ai trống thử bằng hạt.
Đến mùa thu hái, người ta buộc giẻ vào đầu ngón tay, có thể đeo găng mà hái để tránh gai đâm vào tay. Áo cũng phải dài tay, chân đi giầy – để tránh gai. Thường đây là công việc của trẻ chăn trâu, phụ nữ, người già. Mỗi ngày một người có thể hái được chừng 5-10kg. Hải về. sau khi phơi khô, cho vào thùng, dùng gậy đảo cho hết gai rồi phơi khô lại lần nữa, gọi là kim anh tử, nếu sau khi loại hết gai đem bổ dọc, loại bỏ hết hạt (thực tế đây là quả thực) rồi phơi khô thì gọi là kim anh nhục hay kim anh phiến.
Ngoài quả giả ra, người ta còn dùng rễ và vỏ rễ, hoa lá kim anh làm thuốc, nhưng hay dùng nhất vẫn là quả giả.
Thành phần hóa học
Trong cùi quả giả kim anh có axit xitric axit malic, nhiều tanin và titamin C, ngoài ra còn đường glucoza, nhựa.
Kim anh tử là một nguồn vitamin C, khá lớn, tỉ lệ hơn 1%. Định lương vitamin C trong quả giả kim anh ở Lạng Sơn, chúng tôi thấy 1.360g trong 100g (Đỗ Tất Lợi và Nguyễn Xuân Thu, 1957).
Trong quả (ta gọi nhóm là hạt) có chất glucozit độc, do đó khi dùng ta vẫn phải bỏ hạt đi.
Năm 1958, hệ được thuộc Viện y học Bắc Kinh có định lượng thấy trong kim anh có tới 17,12% saponozit (Theo Trung được chi Bắc Kinh, 1959).
Tác dụng dược lý
Leclerc (1939) nghiên cứu độc tính của cồn chế từ toàn quả giả (Rosa canina L.) (cả quả giả và quả thực) thì thấy rằng với liều 60-70 giọt có thể gây đờ đẫn, với khuynh hướng chóng mặt và giảm hoạt động của thần kinh cơ.
Năm 1934 A. Garello-Cantoni nhận xét thấy nước sắc 5% cũng có độc tính, tiêm im dưới da một con ếch, rồi một con chuột thì thấy con vật chết sau 3 giờ, sau một thời kỳ kích thích ngắn, xuất hiện hiện tượng đờ đẫn, giật rung, run, liệt toàn thân và chết tim ngừng ở thể tâm trương. Nếu liều nhỏ hơn, các triệu chứng yếu hơn và sau 8 giờ con vật trở lại bình thường. Tóm lại
chất glucozit có tác dụng trên tủy, hệ thống thần kinh và tim.
Công dụng và liều dùng
Kim anh được dùng cả trong đông y và tây y.
Tây y coi kim anh là một nguồn vitamin C quan trọng. Thường chế thành mứt có vị vừa ngọt, vừa chất và vừa chua, dùng làm thuốc bổ, thuốc cầm máu. Thuốc pha hay cồn thuốc chế bằng toàn bộ quả (cả cùi và hạt) được dùng chữa bệnh về thần kinh với những triệu chứng như lo câu, thần kinh bất định, trằn trọc thâu đêm. Khi dùng phải cẩn thận, tránh ngộ độc.
Quả giả kim anh còn dùng dưới dạng xirô ( 1ml có 5mg vitamin C), bột (kg bột có 30mg vitamin C).
Đông y coi kim anh có vị chua, chát, tính bình, vào kinh và thận, có tác dụng
kiện tinh, mạnh ruột, Dùng chữa di tinh, đái són, tiểu tiện nhiều lần, phụ nữ khí hư, bạch đới, tỳ tư mà hay đi ỉa lỏng. Dùng dưới hình thức bột tay cao mềm. Ngày dùng 6 đến 12g.
Ngoài ra người ta còn dùng lá kim anh giã nhỏ, thêm ít muối mà đắp lên mụn nhọt, có khi phối hợp với lá dâu tằm cùng giã với muối mà đắp lên vết thương để cấm máu.
Đơn thuốc có kim anh dùng trong đông y
Thuốc viên thủy lục nhị tiên đơn, chữa di mộng tinh, phụ nữ khí hư, bạch đới:
Quả giả kim anh, khiếm thực, hai vị bằng nhau, tán nhỏ làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-20 viên. Lục là đất, thủy là nước vì bài thuốc gồm một vị mọc trên đất (kim anh) và một vị thuốc mọc dưới nước (khiếm thực).
Thuốc viên chữa lỵ lâu ngày:
Hoa kim anh, quả kim anh (bỏ hạt), lá kim anh và anh túc xác, tất cả bằng nhau, tán nhỏ viên thành viên bằng hạt ngô; ngày dùng 7 viên, dùng nước sắc vỏ quít mà chiêu thuốc.
Chú thích:
Tại các nước, người ta dùng quả giả của một số cây khác cùng chi, ví dụ như Roasa canina L., Rosa cinnamomea L., Rosa acicularis Lindbe v.v… đều cùng một họ. Ở Việt Nam mới chỉ thấy dùng có cây kim anh, ta có thể nghiên cứu dùng quả của một vị cây khác như cây tầm xuân, cây hoa hồng v.v…