Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Gừng trang 366-368 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là Khương, Sinh Khương, Can Khương.
Tên khoa học Zingiber offcinale Rosc.
Thuộc họ Gừng Zingiberaceae.
Sinh khương là củ (thân rễ) tươi.
Khương (Rhizoma Zingiberis) là thân rễ của cây gừng tươi hoặc khô. Tùy theo tươi hay khô, vị thuốc mang tên khác nhau
Sinh khương là củ (thân rễ) tươi
Can khương là thân rễ phơi khô.
Mô tả cây
Gừng là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao 0,60 đến 1m. Thân rễ mầm lên thành củ, lâu dẫn thành xơ. Lá mọc so le, không cuống, có bẹ, hình mác dài 15 đến 20cm, rộng chừng 2cm, mặt bóng nhãn, gần giữa hơi trắng nhạt, và có mùi thơm. Trục hoa xuất phát từ gốc, dài tới 20cm, cụm hoa thành bông mọc sít nhau, hoa dài 5cm, rộng 2-3cm, lá bắc hình trứng, dài 2,5cm, mép lưng màu vàng, đài hoa dài chừng 1cm, có 3 răng ngắn, 3 cành hoa dài chừng 2cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím, nhị cũng tím. Loài gừng trống ít ra hoa
Phân bố, thu hái và chế biến.
Gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước và xuất khẩu.
Muốn có gừng tươi (sinh khương) thường đào củ vào mùa hạ và thu. Cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch là được. Muốn giữ gừng tươi lâu phải đặt vào chậu phủ kín đất lên. Khi dùng đào lên rửa sạch. Mùa đông, đào lấy những thân rễ già, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch, phơi khô sẽ được can khương.
Ngoài 2 loại gừng trên dùng trong đông y, trên thị trường quốc tế, người ta còn tiêu thụ 2 loại gừng gọi là gừng xám và gừng trắng. Gừng xám là loại củ còn để nguyên vỏ hay cạo vỏ ở những chỗ phẳng, rồi phơi khô. Gừng trắng là loại gừng đã được cạo lớp vỏ ngoài có chứa nhiều nhựa dầu (oléorésine), rồi mới phơi khô. Thường người ta còn ngâm gừng già vào trong nước một ngày, rồi mới lấy ra cạo vỏ. Có khi người ta còn làm trắng bằng canxi hypoclorit, hay ngâm nước với hoặc xông hơi diêm sinh (SO,).
Thành phần hóa học
Trong gừng có 2-3% tinh dầu. Ngoài ra còn có chất nhựa dầu (5%), chất béo (3,7%), tinh bột và các chất cay như zingeron, zingerola và shogaola.
Tinh dầu gừng có tỷ trọng 0,878, tả tuyển, năng suất quay cực -25° ở -5°C, độ sôi 155-300 độ. Trong tinh dầu có ở camphen, B phelandren, một cacbua: zingiberen C15H24, một rượu sesquitecpen, một ít xitrala bocneola và geraniola.
Nhựa gồm một nhựa trung tính, hai nhựa axit. Zingerola là một chất lỏng sánh, màu vàng không mùi, vị rất cay, độ sôi ở 18mm thủy ngân 235-240 độ C. Bản thân chất này không đơn thuần, khi cùng đun sôi với Ba (OH)2 sẽ bị phân giải cho những chất andehit bay hơi, những chất cay có tinh thể gọi là zingeron C11H14O3 và một chất ở thể dầu gọi là shogaola.
Shogaola có độ sôi 201-203 độ C.
Zingeron có tinh thể, độ sôi 40-41 độ C, vị rất cay.
Căn cứ vào sự hiểu biết hiện nay về cấu tạo hóa học, những chất có cấu tạo trên đây, trong đó n lớn hơn 1 thì đều có vị cay như các chất trong gừng. Do những công thức trên, chúng ta hiểu được tại sao khi ngâm gừng lâu với một dung dịch 5/ KOH, thì sẽ mất hết tính chất cay.
Tác dụng dược lý
Tiêm zingeron vào tĩnh mạch thỏ, thì thần kinh trung khu vận động bị tê liệt, nhưng uống với liều cao không có hiện tượng độc nào, tuy nhiên, con vật kém ăn, nhu động ruột bị ức chế. Khi cho thỏ uống gừng, thì không thấy độc tính, nhưng chó uống thì gây nôn.
Năm 1930, H. M. Emig tiêm mạch máu thuốc ging thì thấy con vật thí nghiệm có hơi thở mau lên, biên độ giảm xuống, mạch nhanh lên, huyết áp tăng cao. Người ta cho rằng các hiện tượng đó. là do tỉnh dấu của gừng gây ra.
Chúng ta thấy những thí nghiệm được lý nếu trên chưa chứng minh những kinh nghiệm dùng gừng trong nhân dân ta.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ. Sinh khương vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh phế, tỳ và vị. Có tác dụng phát biểu tán hàn, ôn trung, làm hết nôn, tiêu đờm, hành thủy giải độc. Dùng chữa ngoại cảm, biểu chứng, bụng đầy trướng, nôn mửa, giải độc bán hạ, nam tinh, cua cá, đờm ẩm sinh họ. Can khương vị cay, tính ổn, bào khương (can khương bào chế rồi) vị trong ngoài đều nhiệt, vì nhiệt mà đau bụng, cay đảng tính đại nhiệt. Vào sâu kinh tâm, phế, tỳ. vị, thận và đại tràng. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch, dùng chữa thổ tả, bụng đau, chân tay lạnh, mạch nhỏ, hàn ẩm xuyên hi phong hàn thấp tỳ.
Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp tiêu hóa, dùng trong những trường hợp kém ăn ăn uống không tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo, phong hàn làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng. Giám tươi (sinh khương) dùng với liều 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha hoặc rượu gừng tươi (r ngày 2-5ml). Gừng khô (can khương) dùng khi bị lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa. Liều dùng cũng như gừng tươi.
Ngoài công dụng làm thuốc, gừng còn tiêu thực mạnh trên thị trường trong nước và thế giới vì một thực phẩm, nguyên liệu chế rượu bia (Anh Mỹ lại thích loại bia này), mứt gừng, vv…
Đơn thuốc có gừng
- Chữa nhức đầu, lạnh bụng, nôn ọe, có dòn Can khương 10g, trích cam thảo 4g, nước 300m sắc còn 100ml, chia nhiều lần uống trong ngà Thấy đỡ thì uống bớt đi.
- Đi tả ra nước: Can khương sấy khô tán nhỏ dùng nước cơm chiên thuốc, mỗi lần uống 2-4
- Đi lỵ ra máu: Can khương thiếu tổn tính Ngày uống nhiều lần, mỗi lần 2-4g, chiều bắt nước cơm hay nước cháo.
- Cảm cúm, nhức đầu, họ, thân thể đau mà Gừng sống giã nhỏ, bọc vào mớ tóc rối, tẩm mực xào nóng đánh khắp người và xát vào chỗ đau mỏ
- Chữa nôn mửa: Gừng sống nhấm từng ít một cho đến khi hết nôn.
Trong đông y, người ta cho rằng những người trong ngoài đều nhiệt, vì nhiệt mà đau bụng, vì nhiệt mà thổ huyết thì không dùng được