Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Cốt Toái Bổ trang 508-509 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là bổ cốt toái, co tạng tó (Thái ở châu Quỳnh Nhai), co in tó (Thái ở Điện Biên), cây tổ phượng, cây tổ rồng, tổ điều, tắc kè đá.
Tên khoa học Drynaria fortunei J. Sm. (Polypodium fortunei O. Kuntze).
Thuộc họ Dương xỉ Polypodiaceae.
Cốt toái bổ hay bổ cốt toái (Rhizoma Drynariae fortunei) là thân rễ phơi khô của cây bổ cốt toái. Tên bố cốt toái vì người ta cho rằng vị này có tác dụng làm liền những xương đập gẫy.
Tên có tạng tó vì tạng có nghĩa là đặt vào, tó là liền lại vì vị thuốc này đặt vào thì làm liền lại. Chữ in có nghĩa là gân, vì vị thuốc có tác dụng nối liền gân cốt.
Mô tả cây
Cây sống riêng trên các hốc đá, mọc trên những đám rêu, hoặc sống trên các thân cây lớn như cây đa, cây si. Cây sống lâu năm, có thân rễ dày mẫm, phủ nhiều vảy màu vàng, bóng. Có hai loại lá: Lá bất thụ, không cuồng màu nâu, hình trứng 5-8cm, rộng 3-6cm, phía cuống hình tim, có thùy, gân nổi rõ. Lá hữu thụ, màu xanh nhẵn, đơn xẻ thùy lông chim, dài 25-40cm, cuống có đìa, có thủy thuôn, tù ở đầu, dài 5- 6cm, có mạng, ổ từ nang nhiều, xếp thành một hàng ở mỗi bên gần chính, hình tròn, không có áo tử nang.
Ở Việt Nam có mấy loài cốt toái bổ đều được dùng làm thuốc như Drynaria fortunei J. Sm., Drynaria bonii Christ.
Drynaria fortunei có lá xẻ răng cưa, bào tử xếp đều đặn, còn Drynaria bonii có lá mép lượn sóng. bào tử xếp không đều.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở khắp núi đá, trên cây hay dọc suối vùng rừng núi nước ta. Còn có mọc ở Lào, Trung Quốc (miền Trung và miền Nam).
Việc thu hái có thể tiến hành quanh năm, vào những lúc ít công việc đồng áng, thường vào các tháng 4 đến tháng 8-9.
Hái về, rửa sạch đất cát, trừ bỏ các lá là dùng được. Nếu dùng khô thì sau khi rửa sạch đất cát, hoặc phơi khô ngay, hoặc phơi sau khi đồ cho chín để dễ bảo quản. Muốn hết lông, thường người ta đốt nhẹ cho cháy hết lông nhỏ phủ trên thân rễ.
Thành phần hoá học
Trong cốt toái bổ Drynaria fortunei có hesperi- din (C. A., 1970,73, 11382j) và 25-34,89% tỉnh bột (Trung Quốc kinh tế thực vật chỉ, 1961, 447).
Công dụng và liều dùng
Vị thuốc này mới thấy được dùng trong nhân dân.
Theo tài liệu cổ, cốt toái bổ có vị đắng, tính ôn và không độc, vào hai kinh can và thận. Có khả năng bổ thận, trị đau xương, hành huyết phá huyết ứ, làm thuốc hoà hoãn, sát trùng đỡ đau. Dùng chữa đập xương, đau xương, bong gân, sai khớp, tai ù rằng đau, thận hư. Những người âm hư, huyết hư đều không dùng được.
Dùng uống trong hay đáp ở ngoài. Liều dùng hàng ngày là 6 đến 12g. Dùng ngoài không có liều lượng.
Có thể dùng dưới hình thức thuốc sắc hay ngâm rượu, hoặc giã đắp lên vết thương.
Năm 1963, tại Quân y viện 6 (Tây Bắc) có dùng cốt toái bỏ điều trị có kết quả 4 trường hợp bóng gần, tụ máu như sau:
Cốt toái bổ tươi hái về, bóc bỏ hết cả lông tơ và lá khổ, sau đem rửa sạch, giã nhỏ. Rấp một ít nước nào, gói vào lá đã nướng cho mềm, rồi đắp lên các vết đau. Những loại gãy xương hở không dùng lỗi này. Trong một ngày thay thuốc bỏ nhiều lần. Nếu không đủ cốt toái bổ, có thể chỉ lấy bã thuốc ra, rấp nước rồi lại băng lại. Thường chỉ sau 3 ngày đến 1 tuần là bệnh nhân đỡ và ra viện trong khi dùng các phương pháp khác kéo dài có khi hàng tháng mà không đỡ (Báo cáo của bác sĩ Lê Sỹ Toàn và hộ lý Lò Văn Sứ Quân y viện 6, Tây Bắc).
Những đơn thuốc khác có cốt toái bổ
Cốt toái bổ, tán nhỏ, cho vào bổ dục lợn, nướng chín mà ăn để chữa các chứng ù tai, thận hư, rằng đau.
Chú thích:
Tại Việt Nam, ngoài vị Drynaria fortunei, người ta còn dùng thân rễ một loại cây khác gọi là Drynaria bonii Christ, cùng họ với cùng một công dụng.