Cây Bình Vôi (Củ Một) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

336
Cây Bình Vôi
Cây Bình Vôi
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Bình Vôi trang 796-798 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là củ một, củ mối tròn, ngải tượng, tử nhiên, cả tom (Thổ).

Tên khoa học Stephania rotunda Lour.[Stephania glabra (Roxb.) Miers.]

Thuộc họ Tiết dê Menispermaceae.

Bình với hay củ bình vôi (Tuber Stephaniae rotundae) là phần thân phình ra thành củ của cây bình vôi Stephania rotunda Lour.

Cây củ bình vôi cho ta các vị thuốc:

1. Thân cù (Tuber Stephaniae rotundae) thái mỏng phơi hay sấy khô.

2. Các hoạt chất, chủ yếu là chất rotundin.

Trước đây có người gọi nhầm cây này là nhà thủ ô” cho nên thuốc rotundin chế từ củ bình vôi có người lại đặt tên là “thuốc an thần hà thủ ổ”. Cẩn tránh nhầm lẫn với cây hà thủ ô (xem vị này).

Mô tả cây

Cây củ bình vôi là một loại cây mọc leo, phần dưới thân phát triển thành củ to, bám vào núi đá, có củ rất to, nặng tới hơn 20kg. Da thân củ màu nâu đen, xù xì giống như hòn đá, hình dáng thay đổi tuỳ theo nơi củ phát triển. Nếu mọc ở đất thì củ nhỏ hơn. Có người gọi là “củ gà ấp”. Hiện nay có người cho cây củ gà ấp là cây củ bình với mọc ở núi đất. Có người lại cho là cây củ gà ấp và cây củ bình vôi là hai cây thuộc hai loài khác hẳn nhau (cần chú ý kiểm tra lại). Từ thân củ mọc lên những thân màu xanh, nhỏ, mềm. Lá hình khiên, mọc so le, hình bầu dục hay hình tim hoặc tròn, đường kính 8-9cm, cuống lá dài 5- 8cm. Hoa nhỏ mọc thành tán. Hoa đực cái khác gốc. Hoa cái có cuống tấn ngắn, còn hoa đực số cuống tán dài. Quả chín hình cầu màu đỏ, tươi, trong chứa một hạt hình móng ngựa.

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây củ bình vôi thường ưa mọc ở những vùng có núi đá tại các tỉnh Hà Tây, Hoà Bình. Hà Giang, Tuyên Quang, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hoá v.v, … Nơi cao lạnh như Sapa (Lào Cai) cũng có. Tại những vùng núi đất có một cây hình dáng rất giống, nhưng củ nhỏ, thường chỉ bằng quả trứng vịt gọi là cây củ gà ấp. Không rõ có phải là cây củ bình với mọc ở những nơi núi đất hay không. Hiện chưa có dịp kiểm tra lại.

Củ bình vôi có thể thu hải quanh năm, đem về cạo bỏ vỏ đen, thái mỏng phơi khô rồi ngâm rượu hay sắc uống. Không phải chế gì khác.

Từ củ bình vôi, ta có thể chế biến ra chất rotudin thô hay tinh khiết như sau: Thái hay xát củ bình với như ta xát nấu. Ép lấy nước, bã còn lại thêm nước vào, khuấy đều rồi lại ép nữa. Làm như vậy cho tới khi bã hết đẳng (ancaloit ra hết). Nước ép để lắng, thêm nước với trong hoặc dung dịch cacbonat kiềm sẽ cho tủa rotundin thô. Lọc hay gạn lấy phơi hoặc sấy khô. Như vậy ta sẽ được rotundin thô vừa gọn, vừa dễ bảo quản và dễ vận chuyển, không như củ bình vôi vừa cổng kênh, bảo quản khó, chuyên chở không kịp dễ bị thối hỏng, tỷ lệ ancaloit hạ xuống. Từ rotundin thô, ta có thể chiết rotundin tinh khiết bằng cách dùng cồn hay dung dịch axit sunfuric 5 hay 10% nóng, lọc rồi kết tinh. Làm đi làm lại nhiều lần, theo nguyên tắc chung của chiết ancaloit, ta sẽ được rotundin tinh khiết.

Cây Bình Vôi
Cây Bình Vôi

Thành phần hoá học

Năm 1940, Bùi Đình Sang đã chiết từ củ binh với mọc ở Việt Nam các chất tinh bột, đường khử oxy, axit malic, men oxydaza và một ancaloit với tỷ lệ 1,2 đèn 1,5% (tính trên củ tươi), được Bùi Đình Sang đặt tên là rotundin.

Năm 1944, Kondo (Nhật) đưa ra công thức khai triển của rotundin như sau với công thức thô là C13H19 (OCH3)3CH3N.

Tại Ấn Độ, năm 1950 và 1952, Chaudry G. R và S Siddiqui nghiên cứu và chiết từ củ cây Stephania glabra (Roxb.) Miers nhiều ancaloit và đặt tên là hyndarin CH,ON, stetarin C28H25O4N và xyclanin C38H42O6N2 trong do hyndarin chiếm thành phần chủ yếu (chừng 30% hyndarin. 15-18% stefanin và rất ít xycleanin).

Nghiên cứu cấu tạo hyndarin người ta thấy rằng hyndarin thực ra cũng chỉ là một ancaloit đã biết có tên là tetrahydropanmatin.

Trước năm 1965, người ta vẫn cho rằng hyndarin và rotundin là hai ancaloit khác nhau vì chiết từ hai cây khác nhau, mọc tại hai nước khác nhau, Nhưng đến năm 1965, Viện nghiên cứu cây thuốc và cây có tinh dầu toàn liên bang Xô Viết cũ (VILAR) có dịp so sánh hai cây, một di thực từ Ấn Độ, một di thực từ Việt Nam, thấy rằng hai cây chỉ là một loài nên đã kiểm tra lại tính chất của rotundin và đã xác định rotundin và hyndarin chỉ là một chất và có cấu tạo của tetrahydropanmatin (Công tác được khoa, 6-1965). Nhưng thực tế rotundin của Bùi Đình Sang là một hỗn hợp nhiều ancaloit trong đó chủ yếu là hyndarin.

Ngoài rotundin ra, năm 1964, tại Bộ môn dược liệu (Trường đại học dược khoa, Hà Nội) Ngô Văn Thu còn chiết từ củ bình vôi Việt Nam một ancaloit mới với tỷ lệ 1% và đặt tên là ancaloit A (Tập san hoá học, UBKHKTVN 12-1964), hiện  đã được xác định công thức sau đây:

Năm 1965 tại Liên Xô cũ, Phan Quốc Kinh và cộng sự cũng chiết từ củ bình vôi mang từ Việt Nam sang một số ancaloit khác và đặt tên là ancaloit A, ancaloit C và D với tỷ lệ 0,08% mỗi thứ (Hoá học các hợp chất thiên nhiên, 6-1965).

Tác dụng dược lý

Tác dụng dược lý của rotundin đã được nghiên cứu trong nước ta (Revue médicochirurgicale franca lise d ’Extrême-orient, 4-1944, 430-433), tại Liên Xô cũ (Dược lý học và độc chất học, 3- 1961), Rumani (1963) và Trung Quốc (Dược học thông báo, 1965). Sau đây là một số kết quả:

1. Rotundin rất ít độc: Tiêm vào mạch máu một con thỏ với liều cao hơn 30mg/1kg thể trọng, con thỏ chỉ mệt 1-2 ngày, đồng tử bị liệt nhất thời rồi lại hết.

2. Tác dụng trấn kinh rõ rệt trên nhu động vị tràng. Trên mẫu ruột lấy riêng, nó gây hiện tượng giảm khẩn rõ rệt mà vẫn duy trì sự co bóp đều hoà và kéo dài. Có thể dùng chữa những trường hợp tăng nhu động và ống tiêu hoa bị giật.

3. Tác dụng điều hoà đối với tim và bổ tim nhẹ.

4. Còn có tác dụng điều hoà hô hấp có thể dùng phần rượu, rồi uống với liều 5 đến 15ml rượu một
chữa hen hay chữa nấc.

5. E. A. Trutēva (Liên Xô cũ, 1961) còn chứng minh tác dụng an thần, gây ngủ và chống co quắp, hạ huyết áp.

Đối với những ancaloit khác của củ bình vôi, chỉ có ancaloit A (tức là roemerin) do Ngô Văn Thu chiết, được Dương Hữu Lợi thí nghiệm dược lý (Y học Việt Nam, 1-1966) và đã đi tới những kết luận sau đây:

1. Dung dịch ancaloit A có tác dụng gây tê niêm mạc và phong bể: Tính theo công thức G. Valette, dung dịch 0,5% có tác dụng gây tẻ miêm mạc tương đương với dung dịch 1,8% clohydrat cocain, theo thí nghiệm của Mak và Nelson, dung dịch ancaloit A 0,5% có tác dụng gây tê phong bế mạnh hơn dung dịch clohydrat cocain 1% và dung dịch novocain 3%.

2. Ancaloit A làm giảm biên độ và tần số co bóp của tim ếch cô lập, nhưng với liều mạnh hơn, tim ếch ngừng ở thời kỳ tâm trương. Điều này chứng tỏ dung dịch ancaloit A có ảnh hưởng trực tiếp trên tám cơ và làm ngừng co bóp. Dung dịch ancaloit A có tác dụng đối lập với tác dụng gây tăng trương lực và nhu động co bóp ruột của dung dịch axetylcholin. Dung dịch ancaloit A có tác dụng an thần gây ngủ với liều lượng nhẹ nhưng với liều cao kích thích thần kinh hệ trung ương, gây co giật và chết. Ở điểm này, dung dịch ancaloit A hoàn toàn khác hẳn với dung dịch rotundin. Ngoài ra, ancaloit A có tác dụng giãn mạch hạ huyết áp, giảm cả huyết áp tối đa và tối thiểu.

3. Dung dịch ancaloit A có độc tính DL50: 0.125g/kg thể trọng chuột, như vậy liều độc tương đương với clohydrat cocain, đồng thời dung dịch ancaloit A cũng có những biểu hiện độc như cơ- cain (kích thích thần kinh hệ trung ương, biểu hiện co giật…).

Trên lâm sàng rotundin được áp dụng rộng rãi từ năm 1944 và trong suốt kháng chiến chống Pháp để điều trị có kết quả một số trường hợp đau tim, mất ngủ, hen, đau bụng, lỵ amíp. Tác dụng rõ rệt nhất là ngủ và an thần.

Công dụng và liều dùng

Trong nhân dân củ bình vôi thái nhỏ, phơi khô được dùng dưới dạng sắc, ngâm rượu chữa hen, họ lao, lỵ, sốt, đau bụng, ngày uống 3 đến 6g. Có thể lần bột, ngâm rượu 400 với tỷ lệ 1 phần bột 5 phần rượu, rồi uống liều 5 đến 15ml rượu một  ngày. Có thể thêm đường cho dễ uống.

Rotundin clohydrat được dùng làm thuốc trấn kinh, trong các trường hợp mất ngủ, sốt nóng, nhức đầu, đau tim, đau dạ dày, hen. Ngày dùng 0,05g đến 0,10g dưới dạng thuốc bột, thuốc viên. Có thể chế thành dạng tiêm 0,05g rotundin clohydrat hay sunfat trong ống 5ml (vì muối rotundin ít tan trong nước).

Trẻ con dùng với liều lượng 0,02g đến 0,025g đối với trẻ 1-5 tuổi, 0,03g đến 0,05g đối với trẻ 5-10 tuổi.

Chú thích:

Trung Quốc dùng một cây mang tên thiên kim đằng Stephania japonica Miers cùng họ làm thuốc chữa đau bụng, ly, họ lao.

Trong rễ cây này có các ancaloit như stephanin C34H36)5N2, prostephanin C38H57O8N4, epistephanin C19H44O7N2. pseudoepistephanin C19H21O3N và homostephanolin C32H44O7N2. Tất cả đều có tính thể.

Qua sự mô tả cây, cây này rất giống cây củ bình với của ta. Cần chú ý nghiên cứu so sánh dối chiếu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!