Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Ngọc Trúc trang 843 – 844 tải bản PDF tại đây.
Tên khoa học Polygonatum officinale All.
Thuộc họ Hành Alliaceae.
Ngọc trúc (Rhizoma Polygonati officinalis) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây ngọc trúc. Vì lá giống lá trúc, thân rễ bóng nhẫn trông như ngọc, do đó có tên.
Mô tả cây
Ngọc trúc là một loại cỏ sống dai cao 40 – 60m, thân rễ mọc ngang màu vàng trắng nhạt,
đường kính 05-1,5cm, trên thân rễ có nhiều rễ con. Lá mọc so le từ giữa thân trở lên, không có cuồng, cứng dài, hình trứng rộng, dài 6-12cm, rộng 3-6cm, mặt dưới màu trắng nhạt. Hoa mọc ở kẽ lá có cuống dài 1-1,4cm, mỗi kẽ mọc 1-2 hoa, màu trắng, hình chuồng. Nếu 2 hoa thì có một cuống chung và 2 cuống con riêng. Quả mọng, hình cầu, đường kính 1-7mm, khi chín có màu tím đen.
Phân bố thu hái và chế biến
Sự phân bố của cây này ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam), ta có thể chú ý tìm ở các tỉnh biên giới.
Hiện nay ta đang khai thác một số loài ngọc trúc với tên hoàng tỉnh. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Thu hái vào mùa xuân hoặc mùa thu, hái về cắt bỏ rễ con, rửa sạch đất, để một lúc, lấy ra, phơi cho hơi khó đem ra lần cho mềm rồi phơi hay sấy khô là được.
Thành phần hóa học
Theo tài liệu (Sinh được học của Từ Quốc Quân, Bắc Kinh, 1958) trong ngọc trúc có các chất glucozit chữa tim như convallamarin và convallarin là hoạt chất của cây Convallaria maialis (Muguet). Ngoài ra còn chứa chất nhầy. Nhưng gần đây, khoa được Viện nghiên cứu y học Bắc Kinh (Trung Quốc) thí nghiệm không thấy các phản ứng của glucozit chữa tim.
Cần chú ý nghiên cứu lại.
Tác dụng dược lý
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Nếu căn cứ vào thành phần hóa học xác định theo tài liệu cũ thì chất convallarin có tác dụng kích thích thận và tẩy mạnh, lúc đầu convallarin gây hạ huyết áp, nhưng sau đó tim đập chậm hơn và hô hấp chậm lại, gây co quắp và cuối cùng với liều vừa đủ, gây tim ngừng ở thể tâm giãn, sau đó ngưng hô hấp.
Công dụng và liều dùng
Trong nhân dân ngọc trúc được coi là vị thuốc bổ dùng trong trường hợp cơ thể bị suy nhược, mồ hôi ra nhiều, đi tiểu nhiều lần, di tinh. Liều dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các dạng thuốc khác.
Theo tài liệu cổ, ngọc trúc có vị ngọt, tính hơi hàn vào 2 kinh phế và vị. Có tác dụng tư âm, nhuận táo, sinh tân khỏi khát. Dùng chữa táo nhiệt, miệng khát, phong thấp, sinh họ phát sốt, mồ hôi trộm hư lao mà sốt. Người dương suy âm thịnh, tỳ hư đờm thấp ứ trệ không dùng được.
Chú thích:
Qua sự mô tả và hình dáng giữa ngọc trúc và một số loại hoàng tinh dễ có sự nhầm lẫn; có thể ghi trong bảng so sánh sau đây để phân biệt.
Bộ Phận | Ngọc Trúc | Hoàng Tinh |
Lá | Mọc so le, hình trứng rộng | Phần nhiều mọc vòng, lá, hẹp, dài, quăn ở đầu. Nhưng cũng có loại lá mọc so le, phiến lá hình trứng. |
Thân rễ | Hình trụ, nhưng hơi dẹt, nhỏ và dài, to hay nhỏ đều, nhiều đốt rõ rệt, nhiều rễ con. | Thân rễ mầm, từng đốt to một, hoặc một đầu to một đầu nhỏ, ít đốt, không rõ, ít rễ hơn. |
Tên cây | Chủ yếu là loài Polygonatum officinale. | Chủ yếu loài P. kingianum, P.sibiricum, P.multiflorum, P.cirrhifolium. |