Cây Ngũ Gia Bì (Xuyên Gia Bì, Thích Gia Bì) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

370
Ngũ Gia Bì
Ngũ Gia Bì
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Ngũ Gia Bì trang 379-382 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Xuyên Gia Bì, Thích Gia Bì (Ngũ Gia Gia Bì Gai)

Tên khoa học Acanthopanax aculeatus Seem. Acanthopanax aculeatum Hook. Acanthopanax trifoliatus (L). Merr.

Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.

Ngũ gia bì (Cortex Acanthopanacis), là vỏ rễ phơi khô của cây ngũ gia bì. Vì lá có 5 lá chét to chụm vào với nhau và chỉ dùng vỏ rễ làm thuốc

do đó có tên như vậy. Ngoài vị trên ra, tên ngũ gia bì còn chỉ nhiều vị khác nhau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.

Mô tả cây

Ngũ gia bì là một cây nhỏ, rất nhiều gai, cao chừng 2-3m. Lá mọc so le, kép chân vịt có từ 3- 5 lá chết, phiến lá chét có hình bầu dục hay hơi thuôn dài, phía cuống hơi thót lại, đầu nhọn, mỏng, mép có răng cưa to, cuống lá dài từ 4- 7cm. Hoa mọc khác gốc, thành hình tán ở đầu cành. Đầu mùa hạ ra hoa nhỏ màu vàng xanh.

Quả mọng, hình cầu, đường kính chừng 2,5mm, khi chín có màu đen 

Ngũ Gia Bì
Ngũ Gia Bì

Phân bố, thu hái và chế biến

Ngũ gia bì mọc hoang ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta, hay gặp nhất là ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Sapa (Lào Cai), Vĩnh Phúc, Phú thọ, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Hà Tây, Tuyên Quang. Có mọc ở Trung Quốc (Quảng Châu, Tử Xuyên).

Thường đào cây vào mùa hạ hay mùa thu, lấy rễ, bỏ gỗ, lấy vỏ, phơi khô là được. Khi dùng để sống hoặc sao vàng sắc uống.

Vị thuốc thường là những cuộn ống nhỏ, dài ngắn không đều, dày chừng Imm, vỏ ngoài màu vàng nâu nhạt, hơi bóng có những nếp nhãn, bì khổng dài, mặt trong màu xám trắng, dai, mặt phẳng, có những điểm vàng nâu. Mùi không rõ. 

Thành phần hoá học

Loại ngũ gia bì của ta chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Loại ngũ gia bì của Trung Quốc hải ở cây nam ngũ gia bì hay thích ngũ gia bì, hoặc xuyên gia bì- Ancanthopanax gracistylus W. W. Smith, cùng họ, có chứa một chất thơm là 4 métoxysalixylandehyt và một số axit hữu cơ.

Trong rễ và thân cây Eleutherococcus senticosus Maxim., Acanthopanax senticosus (Rupr. et Maxim.) Harms có chứa nhiều heterozit: Rể chứa 0,6-0,9%, thân chứa 0,6-1,5%. Trong những heterozit có eleutherozit a hay ß sitosterol glucozit C35H60O6, eleutherozit B hay syringin C17H24O9.H2O, eleutherozit B1 C17H20O10, eleutherozit C8C18O6, ngoài ra còn eleutherozit D và E, cả hai đều là glucozit của syringaresinol hay dilirioresinol B C22H26O8 với vị trí sắp xếp khác nhau, eleutherozit F và G (C. A., 1965, 62, 16630a và C. A., 1969, 71, 1693n). Tỷ lệ những heterozit có trong rễ đã xác định được như sau: A, B, C, D, E, F và G là 8: 30: 10: 12: 4: 2: 1 (C. A., 1965, 62, 16630a). Trong vỏ rễ và thân eleutherozit B có nhiều hơn, trong vỏ thân và thịt quả thì heterozit A, C, E và B nhiều hơn (C. A., 1971, 74, 1080r). Tác dụng của những heterozit ấy so với một số heterozit trong nhân sâm có những điểm giống nhau.

Rễ còn chứa I-sesamin C20H18O6 (C. A., 1972,76, 32224m) và các đa đường.

Lá chứa eleutherozit I, K, L và M (C. A., 1972. 76, 59965r và Index Chemicus, 1972, 45, 190217) cùng với senticozit A, B, C, D, E và F có genin là axit oleanic (C. A., 1970, 73 127741e, C. A.,1972, 76, 70053m).

Trong rễ loài ngũ gia bì Acanthopanax sessiliflorus (Rupr, et Macxim.) Seem. Người ta thấy có những lignan glucozit như: Acanthozit A (độ chảy 100°C, acanthozit B CH,O, acanthozit C độ chảy 125-128°C, acanthozit D CHO, (C. A., 1965, 63, 843g và C. A.. 1966, 64, 8290a).

Ngoài ra còn daucocosterin (hay B sitoterolglucozit) C35H60O6 (C. A., 1966, 65, 2626h), I-sesamin C20H18O6, I-savinin C10H16O6 (C. A., 1966, 65, 15790d) glucozit tim, tinh dầu, (C. A., 1955, 49, 5603b).

Công dụng và liều dùng

Đông y coi ngũ gia bì là một vị thuốc có tác dụng mạnh gân cốt, khu phong hóa thấp chủ trị đau bụng, yếu chân, trẻ con lên 3 tuổi chưa biết đi, con trai âm suy (dương sự bất cử), con gái ngứa âm hộ, đau lưng, tê chân, làm mạnh gân cốt, tăng trí nhớ, ngâm rượu uống rất tốt. Theo tài liệu cổ: Ngũ gia bì vị cay, tính ôn vào 2 kinh can và thận.

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.

Đơn thuốc có ngũ gia bì

Rượu ngũ gia bì:

Ngũ gia bì sao vàng 100g, rượu 1 lít. Ngâm trong 10 ngày, thỉnh thoảng lắc đều. Ngày uống một cốc con vào buổi tối trước bữa cơm chiều, chữa đau người, đau lưng, đau xương.

Đơn thuốc dùng cho phụ nữ:

Ngũ gia bì, mẫu đơn bì, xích thược, đương quy, mỗi vị 40g. Tán nhỏ. Ngày uống hai lần, mỗi lần 4g chữa những người phụ nữ bị lao lực, bị mệt mỏi hơi thở ngắn, sốt, ra nhiều mồ hôi, không muốn ăn uống.

Chú thích:

Tên ngũ gia bì còn dùng để chỉ nhiều vị thuốc khác nhau, cần chú ý để tránh nhầm lẫn.

  1. Ngũ gia bì nhập của Trung Quốc: Bản thân những vị này lại chia ra:

a) Bắc ngũ gia bì- Cortex Periplocae radicis-vỏ rễ phơi khô của cây hương gia bì, xú ngũ gia bì Periploca sepium Bunge thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae). Cây này chưa thấy ở Việt Nam.

b) Nam ngũ gia bì- Cortex Acanthopanacis gracilistyli-là vỏ rễ phơi khô của cây tế trụ ngũ gia bì Acanthopanax gracilistylus W. Smith thuộc họ ngũ gia bì (Araliaceae). Cây này cũng chưa thấy ở nước ta.

c) Hồng mao ngũ gia bì- Cortex Acanthopanacis giraldii-là vỏ rễ phơi khô của cây hồng mao ngũ gia bì Acanthopanax giraldi Hans cùng họ.

Một số cây Acanthopanax khác cũng được dùng ở Trung Quốc trong đó có cây của ta Acanthopanax trifoliatus (L.) Merr.

  1. Liên Xô cũ có nghiên cứu và khai thác một loại ngũ gia bì Acanthopanas senticosus tên dùng phổ biến ở Liên Xô cũ là Eleutherococcus senticosus Rupr. et Maxim. Theo nghiên cứu của I. I. Brekhman cây này tốt hơn nhân sâm về một số điểm như có nhiều tác dụng không phụ thuộc vào mùa
  1. Tại Việt Nam, ngoài cây nói trên, còn dùng với tên ngũ gia bì các vị thuốc sau đây:

a) Vỏ cây chân chim Vitex heterophylla (Vitex quinata Williams), còn gọi là cây mạn kinh thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Cây cao chừng 25m, cảnh hơi hình vuông. Lá kép chân vịt gồm 3 5 lá chét, mặt trên trắng, mặt dưới vàng, có những hạch nhỏ, lá chết hai bên nhỏ hơn lá chét ở giữa

Hoa vàng nhạt, mới dưới trắng, mọc thành chùy tồn tại. Cây này mọc nhiều vùng rừng núi miết đầu cành. Quả hạch, hình lẻ, màu đen xám, có đà Bắc, nhiều nhất ở vùng Hoà Bình. Nhân dân dùn vỏ sắc uống hay ngâm rượu vì cho rằng vị thuốc làm cho ăn ngon cơm, dễ tiêu

b) Lá và cành cây đùm đùm hay ngấy chĩa  hay ngũ gia bì hoặc đầm hương (Rubus- cochinchinensis Rubus fruticosus Lour. thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Xem vị đùm đũm.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!