Cây Tam Thất (Kim Bất Hoán, Sâm Tam Thất) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

360
Tam Thất
Tam Thất
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Tam Thất trang 289-291 tải bản PDF tại đây.

Còn có tên Kim Bất Hoán, Nhân Sâm Tam Thất, Sâm Tam Thất.

Tên khoa học Panax Pseudo-ginseng (Burk). F.H.Chen.

Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.

Tam thất (Radix pseudo-ginseng) là rễ phơi khô của cây tam thất. Tên kim bất hoán (vàng không đổi) có nghĩa là vị thuốc rất quý, vàng không đổi được.

Tên tam thất có nhiều cách giải thích: Trong sách Bản thảo cương mục ghi vì cây có 3 lá ở bên trái, 4 lá ở bên phải do đó có tên tam thất. Nhưng có người lại nói tam = ba có ý nói từ lúc nói gieo đến lúc ra hoa phải 3 năm. Thất = bảy, ý nói từ lúc gieo đến khi thu hoạch rễ bán được phải mất 7 năm. Có người lại nói vì lá tam thất có từ 3 đến 7 lá chét

 Mô tả cây

Tam thất là một loại cỏ nhỏ, sống lâu năm. Lá mọc vòng 3-4 lá một, cuống lá dài 3-6cm, mỗi cuống lá mang từ 3-7 lá chét hình mác dài, mép lá có răng cưa nhỏ, cuống lá chét dài 0,6-1,2cm. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành mang hoa. Có hoa đơn tính, có hoa lưỡng tính, cùng tồn tại. Lá đài 5, màu xanh. Cánh hoa 5, màu xanh nhạt. Nhị 5. Bầu hạ hai ngăn. Quả mọng hình thận, khi chín có màu đỏ, trong có hai hạt hình cầu.

Tam Thất
Tam Thất

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây tam thất được trồng từ lâu nhưng với một lượng ít ở tỉnh Hà Giang (Đồng Văn), Lào Cai (Mường Khương, Bát Xát, Phà Lùng), Cao Bằng, .. tại các vùng núi cao 1.200-1.500m. Cần chọn những nơi sườn núi ít gió mạnh, phải làm dàn che nắng và phải rào để bảo vệ chống chuột, sóc hay đến ăn củ. Đất phải được bón phân và chuẩn bị kỹ từ một năm trước, chia thành luống dọc cách nhau 1 mét. Tháng 10-11 chọn những hạt ở những cây đã mọc 3-4 năm. Gieo ngay vào vườn ươm. Tháng 2-3 năm sau mới mọc. Một năm sau, vào tháng 1-2 có thể đào =, cây con, cắt bỏ lá gốc, trồng vào ruộng chính thức.

Sau 3 đến 7 năm mới bắt đầu thu hoạch. Thường cây càng lâu năm rễ củ càng to. Sau khi rửa sạch bùn đất, cắt bỏ rễ con, đem phơi nắng cho hơi héo, đem lăn, vỏ cho mềm, lại phơi nắng và và hoặc lặn làm như vậy từ 3 đến 5 lần mới phơi cho khô hẳn. Có khi người ta cho vào túi gai lắc cho rễ thành đen bóng là được.

Giá trị thu mua căn cứ vào trọng lượng củ. Người ta chia ra.

Loại 1: 105-130 củ nặng 1kg

Loại 2: 160-220 củ nặng 1kg

Loại 3: 240-260 củ nặng 1kg

Cây tam thất còn được trồng ở Trung Quốc: Văn Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây. Vân Nam trồng nhiều nhất và tam thất Văn Nam được coi là tốt nhất.

Thành phần hóa học

Năm 1937-1941, hai tác giả Trung Quốc Triệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nghiên cứu và lấy được từ tam thất hai chất saponin: Arasaponin A và arasaponin B.

Arasaponin A là một chất bột, dễ tan trong rượu metylic, etylic và amylic, hơi tan trong nước, không tan trong ete và axetôn, độ chảy 195- 210C, năng suất quay cực +23, kết hợp với axit axetic cho một chất có tinh thể với công thức

C30H45O10 (CH3O)7 có độ chảy 256 độ. Thủy phân bằng axit loãng sẽ cho arasapogenin A C17H30O5, đường và hai chất có tinh thể: một chất có độ chảy 244 độ, một chất có độ chảy 252 độ 

Arasaponin B (C22H38O10) cũng là một chất bột dễ tan trong nước và rượu metylic, hơi tan trong rượu etylic 10 và rượu amylic, độ chảy 190-200, độ quay cực +8. Thủy phân bằng axit trong dung dịch rượu sẽ cho arasapogenin B C29H32O3 có độ chảy 247 độ và đường trong đó có glucoza.

Năm 1950, Hứa Thực Phương chiết được từ tam thất ba chất saponin: Saponin A C48H50O20, tan trong rượu amylic nóng và một saponin không tan trong rượu amylic nóng.

Kết hợp với axit axetic khô kiệt, sẽ được một chất có tinh thể C29H5O3(CH3CO) có độ chảy 216 độ

Tác dụng dược lý

Năm 1937, hai tác giả Triệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nhận xét thấy tính chất các sapo- run trong tam thất không giống các saponin thường: Rất ít độc đối với cá: Thả cá vàng vào dung dịch 1/ 1.000 hoặc 1/500 sau 24 giờ không có hiện tượng trúng độc. Tiêm vào chó đánh mê bằng ête, I-20ng arasaponin A hoặc B không thấy có sự thay đổi rõ rệt đối với huyết áp, với tim và hò hấp. Đối với khúc ruột cô lập của thỏ và tử cung cô lập của chuột bạch không có sự thay đổi.

Đoàn Thị Nhu, Vũ Thị Tâm và Nguyễn Thị Thọ (Thông báo được liệu, 1977, 4, 14-20, Hà Nội) đã nghiên cứu tác dụng của tam thất trên súc vật thí nghiệm và đã đi đến một số kết luận sau đây:

  1. Rễ tam thất làm tăng khả năng hoạt động của súc vật thể hiện ở kéo dài thời gian bơi của lỗ chuột thử thuốc so với một là đối chứng (những chuột này mang một cục chì nặng kẹp vào đuôi khi bởi để làm chóng mệt).
  2. Rễ tam thất có tác dụng làm tăng sức đề kháng của súc vật đối với yếu tố độc hại như liều độc uabain với tim, nhiệt độ môi trường xung quanh quá cao hoặc quá thấp vượt ngoài giới hạn điều hòa của cơ thể.
  3. Rễ tam thất có khả năng kháng lại hiện tượng giảm lượng prothrombin trong máu thỏ và giảm e khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicuma-rol.
  4. Rễ tam thất khác với nhân sâm không có tác dụng gây tăng huyết áp.
  5. Đối với tác dụng nội tiết.

a) Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lò đối chứng, chứng tỏ tam thất có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật cái,

b) Rẻ tam thất thí nghiệm trên chuột cống đực non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ tam thất không có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật đực với liều này

c) So sánh hoạt tính gây động đực của những rễ tam thất có độ tuổi khác nhau (3 năm và 5 năm) thì rễ tam thất 3 năm chỉ gây động dục 50% số súc vật thí nghiệm với liều 10g/kg trong khi rễ tam thất 5 năm gây cùng tác dụng này với liều 5g/kg. Điều đó chứng tỏ rễ tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục 2 lần mạnh hơn rễ tam thất 3 năm.

d) Nghiên cứu hoạt tính gây động dục của lá và rễ phụ tam thất và căn cứ vào những liều có tác ‘, dụng gây động dục với tỷ lệ súc vật tương đương để so sánh thì thấy lá tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 20 lần và rễ phụ tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 8-10 lần so với rễ củ tam thất 5 năm.

Nhận xét những kết quả trên đây chúng tôi thấy rằng liều 5g/kg nghĩa là 250g cho người nặng 50kg trong một ngày là không có trong thực tế. Thường nhân dân chỉ dùng 2-6g một ngày. Cho nên những dẫn liệu trên đây mới có giá trị tham khảo (Đỗ Tất Lợi).

Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ: Tam thất vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào 2 kinh can và vị. Có tác dụng hành ứ, cầm máu, tiêu thũng dùng chữa thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hỏi không sạch, ung thũng, bị đòn tổn thương.

Thổ tam thất là một loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 6-90cm. Rễ và lá đều mềm, có nhiều đám đốm tím. Lá to có những thùy to cắt sâu; thủy hình mác, mép có răng cưa. Mùa thu ra cụm hoa hình đầu. Hoa hình ống màu vàng. Lá và rễ dùng làm thuốc cầm máu như vị tam thất. Có khi dùng chữa rắn cắn.

Một cây thuộc họ Gừng Zingiberaceae loài Stahlianthus thorelli Gagnep, có thần rễ nhỏ cũng được bán với tên tam thất. Cần chú ý tránh nhằm lẫn, nhất là mua giá quá đắt một cây trồng rất dễ, ít giá trị.

Còn một cây nữa là tam thất Vũ diệp ( Panax bipinnatifidus), (Hm 21, 4).

Nhân dân coi tam thất là một vị thuốc cầm máu dùng trong các trường hợp chảy máu, bị đánh tổn thương, vì ứ huyết mà sưng đau. Ngày dùng 4-8g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. Dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ.

Tại những nơi trồng tam thất, người ta coi tam thất là một vị thuốc bổ không kém nhân sâm, dùng thay nhân sâm.

Chú thích:

  1. Mặc dầu tam thất được trồng ở Hà Giang và Lào Cai từ lâu nhưng việc sử dụng trong nước hầu như rất hiếm. Phần lớn xuất sang Trung Quốc. Theo tài liệu cũ hàng năm ta nhập của Văn Nam Trung Quốc chừng 15-18 tấn tam thất để rồi lại xuất sang Hồng Kông.

Gần đây mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong nước làm thuốc bổ như vị nhân sâm cho nên có tên nhân săn tam thất hay sâm tam thất.

  1. Ngoài vị tam thất chính kể trên, trong nhân dân ta còn dùng rễ một cây nữa với tên thổ tam thất hay tam thất. Cây này đã được xác định là Gynura segetum (Lour.) Merr. hoặc Gynura pinnatifida thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Trống ở đồng bằng cũng được.
Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!