Sâu Ban Miêu – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

183
Sâu Ban Miêu
Sâu Ban Miêu
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Sâu Ban Miêu trang 1034 – 1036 tải bản PDF tại đây.

Cantharis Mylabris.

Còn gọi là nguyên thanh, ban manh, ban mao (Trung Quốc), sâu đậu (Việt Nam), cantharide vesicante (Pháp).

Tên khoa học Lytta vesicatoria Fabr.

Thuộc họ Ban miêu Meloidae.

Ban là sặc sỡ, manh là sâu, về sau gọi là miêu, ban miêu là con sâu sặc sỡ.

Mô tả con sâu

Tên sâu ban miêu được dùng để chỉ nhiều thứ sâu có tính chất gây rộp da giống nhau, và đều được dùng làm thuốc. Sau đây là một số chính:

Sau Cantharis vesicatoria là một thứ sáu nhỏ, có cánh cứng, màu xanh lục biếc, dài từ 15- 20mm, ngang 4-6mm. Đầu hình tim có một rãnh dọc ở giữa đầu, râu đen hình sợi, có 11 đốt. Giữa đầu và ngực có một chỗ thắt lại. Ngực cũng có một rãnh dọc, bụng dài tròn, dưới cánh cứng là hai cánh mềm, trong. Chân gầy, con đực nhỏ hơn con cái, mùi rất hàng, khó chịu, vị không có gì đặc biệt, nhưng da nơi sâu chạm phải (lưỡi, mỗi) sẽ bị rộp lên.

Ở các nước khác (Pháp, Ý, Anh …) sau này sống trên các cây táo, cây bông, cây liễu v.v… Việt Nam có thấy con này nhưng ít dùng.

Sâu ban miêu ở Việt Nam hay dùng gọi là sâu đậu vì sống trên cây đậu cùng loài với sâu ban miêu Trung Quốc.

Sâu ban miêu Trung Quốc và một số nước khác thuộc giống Mylabris, cũng có râu gồm 11 đốt, đốt cuối phình lớn lên, thân hơi khum màu đen với các điểm màu vàng hoặc đỏ nhạt, có khi thần màu vàng với các điểm hay dải ngang màu đen.

Sâu Ban Miêu
Sâu Ban Miêu

Phân bố, thu bắt và chế biến

Sâu ban miêu sống hoang dại ở khắp các tỉnh nước ta. Vào sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, lúc sâu chưa tỉnh người ta đi bắt hoặc lắc cành lá cho sau ngã vào túi vải, hoặc có khi dùng vợt để vợt. Ở Việt Nam mùa bắt vào giữa tháng 5 đến giữa tháng 6 (Khoảng 20-4 đến 15-5 am lịch). Sau đó nhúng cả túi hay vợt vào nước sôi cho sâu chết. Có nơi sau khi sâu chết lại hơ trên hơi dấm đun sôi rồi mới đem phơi cho khô hoặc sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ thấp. Sâu ban miêu phải đựng trong lọ kín, để nơi khô ráo, vì ẩm sẽ làm hỏng sâu.

Trong y học cổ truyền, khi dùng còn ngắt bỏ đầu, bỏ ruột (Cấu đốt sau cùng rồi rút ra, ruột sẽ ra theo). Khi dùng còn sao với gạo nếp 1-2 lần để giảm bớt độ độc.

Việc bảo quản sau bạn miêu rất khó, vì có một số sâu bọ khác hay ăn các bộ phận mềm

của sâu ban miêu. Muốn bảo quản thường người ta cho một ít long não hay thủy ngân vào đáy lọ. Hoặc ngay sau khi ở lò sấy ra, còn đang nóng cho ngay vào các lọ đã tiệt trùng rồi đậy kín.

Thời gian gần đây, do việc sử dụng nhiều loại thuốc trừ sâu hóa học, thêm vào việc sử dụng sâu ban miêu có giám nên việc thu bắt sâu ban miêu hầu như không được chú ý.

Thành phần hóa học

Trong sâu ban miêu ngoài các chất phụ như photphat, axit uric, một dầu béo màu lục không có tính chất gây phỏng, có chất cantharidin là hoạt chất gây phỏng da với hàm lượng tới 0,4%. (Sâu ban miêu thuộc chi Mylabris có thể có tới 1,25%). Chất cantharidin C, H, do Robiquet tìm ra năm 1813, một phần ở thể tự do, một phần ở dạng kết hợp với magie.

Cantharidin không có trong các bộ phận cứng và bộ phận tiêu hóa. Chủ yếu gặp trong máu, trong các bộ phận sinh dục.

Cantharidin có tinh thể hình phiến không có màu, không mùi, trung tính, rất tan trong nước, tan trong axeton, ête nguội, tinh dầu thông đun sôi, axit axetic nóng và axit focmic. Chảy ở 218″C. Thăng hoa từ nhiệt độ 121 C. Các cantharidat tan trong nước nếu có các oxyt kim loạt. Những cantharidat này bị axit tác dụng sẽ lại cho cantharidin chứ không cho axit cantharidic.

Đun sôi với kiểm trong môi trường nước sẽ cho axit cantharidic.

Công dụng và liều dùng

Ban miêu được dùng chủ yếu bên ngoài làm thuốc rộp da để gây mụn dẫn độc hay làm thuốc trị bệnh.

Uống trong có thể gây xót dạ dày và ruột rối đi tới viêm các bộ phận sinh dục và tiểu tiện. Có khi chỉ dán thuốc rộp da có ban miêu cũng thấy có hiện tượng này xảy ra.

Ban miêu thuộc loại thuốc độc bảng A, hiện rất ít dùng uống trong. Tuy nhiên người ta còn dùng cồn ban miêu với liều (8-10 giọt) trong bệnh viêm thượng bì thận, hay cương dương (rất nguy hiểm và giả tạo), làm thuốc thông tiểu và chữa phù.

Bột ban miêu: Ngày uống 0,02g-0,03g (tối đa 0,03g một lần, 0,06g trong 24 giờ).

Cồn ban miêu:10%: VI-X giọt uống hoặc xoa để gãy rộp da hay tụ máu.

Thuốc cao dần có ban miêu để dán vào nơi định gây rộp.

Ngộ độc do sâu ban miêu. Do việc sử dụng tự động sâu ban miêu trong nhân dân không đúng liều lượng nên đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc đáng tiếc cho nên ta cũng nên biết qua một số triệu chứng khi bị ngộ độc do sâu ban miêu:

Ngộ độc sâu ban miêu thường rất đau đớn và nặng, với những triệu chứng ở dạ dày và ruột, tiểu tiện ít và có máu, dương vật cương lên và rất đau đớn cuối cùng có những rối loạn về thần kinh hôn mê và chết trong vòng 24 giờ.

Người ta cho rằng với liều 3 đến 4g bột sau ban miêu (liểu tối đa 1 lần 0,03g, trong 24 giờ là 0,06g) hoặc 20 đến 30g cồn sâu ban miêu (liều tối đa 1 lần 0,5g, trong 24 giờ là 1,25g). hoặc 0,02g đến 0,03g cantharidin (liều tối đa 1 lấn là 2/10mg trong 24 giờ cũng là 2/10mg) đủ làm cho chết người, nhưng người ta cũng nhận thấy có nhiều trường hợp ngộ độc do dùng liều thấp hơn các liều trên rất nhiều.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!