Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
San Sư Cô trang 207-208 tải bản PDF tại đây.
Còn có tên là tam thạch cô, thanh ngưu đởm, cừu ngưu đởm, kim chư đởm, sơn từ cô, củ gió.
Tên khoa học Tinospora sagittata (Oliv.) Gagnep.
Thuộc họ Tiết dê Menispermaceae.
Mô tả cây
San sư cô là tên đồng bào Mèo vùng chợ Mường Khương (Lào Cai) thường gọi cây này. Đây là một loại dây leo, sống nhiều năm, luôn xanh tươi, thân dài từ 1-4m. Thân rễ dưới đất có thể mọc dài tới 1,5m, thỉnh thoảng phình to lên từng đốt hình củ tròn to bằng ngón tay cái, có khi thành một dãy gồm 5 đến 9 củ, màu vàng nhạt, khi cắt có màu hơi trắng, vị đắng. Thần trên mặt đất màu xanh lục nhạt, khi non có lông ngắn. Lá đơn, mọc cách, cuống lá dài 2-5cm, phiến lá hình mác nhọn, gốc lá hình chữ V, phiến lá dài 5-15cm, rộng 2-5cm. Hoa đực, cái khác gốc, hoa đực mọc thành chùm nhiều hoa có cuống dài 2-5cm, hoa cái cũng mọc thành chùm gồm 4 đến 10 hoa. Quả tròn, cuống quả có đầu phình ra, quả chín có màu hồng đỏ. Mùa hoa: Tháng 3 đến tháng 5, mùa quả vào tháng 11-12
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở một số tỉnh miền núi cao mát như Lào Cai (Mường Khương), Hoà Bình (Ba Vi).
Thường thu hái quanh năm, đào lấy củ về rửa sạch, phơi sấy khô. Khi dùng thái mỏng sắc uống hay dã nát đắp bên ngoài.
Thành phần hóa học
Trong củ san sư cô có chất columbin C20H22O6. Hoạt chất khác chưa rõ.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ: San sư cô có vị đắng, tính lạnh, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chủ trị yết hầu sưng đau, ho nhiệt mất tiếng. Dùng ngoài đắp những mụn nhọt sưng đau.
Nhân dân thường dùng chữa lỵ, là chảy dưới dạng thuốc sắc, với liều 3 đến 6g (2 đến 3 củ) trong một ngày. Còn dùng chữa trâu bò đầy trướng, viêm ruột, tả lỵ.
Dùng ngoài dã nát đắp lên nơi sưng đau.
Chú thích:
Tên sơn từ cổ chính ra chỉ dùng để gọi tên một vị thuốc họ Lan (Orchidaceae). Xem vị này.