Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Ngưu Hoàng trang 815-817 tải bản PDF tại đây.
Hiện ta dùng:
1. Ngưu hoàng thiên nhiên=Calculus Bovis (Bezoar)
2. Ngưu hoàng tổng hợp-Calculus Boris artificialis (Bezoar artificialis).
Ngưu hoàng thiên nhiên là sạn mặt hay sỏi mật của con trâu có bệnh Bubalus hubalis L. hoặc con bò-Bos taurus var. domesticus Gmelin có bệnh thuộc họ Trâu bò Bovidae.
Vị ngưu hoàng ở nước ta có nhưng chưa biết khai thác nên vẫn phải nhập của Trung Quốc với giá 12.000₫ một kg. Từ tháng 8 năm 1961, chúng tôi đã phát hiện và giới thiệu trong lớp dược liệu 8/61 rằng một số trâu bò ở nước ta cũng có ngưu hoàng. Trước đây, khi chế cao mật thấy những túi mật có sạn lại bỏ đi. Hiện nay rải rác đã có nơi thu thập ngưu hoàng.
Cách chế ngưu hoàng
Hiện nay vì mới phát hiện nên chưa có kinh nghiệm để phân biệt con trâu bò nào có ngưu hoàng: Những người mổ trâu bò ở Hà Nội nhận thấy trâu bò vùng Vĩnh Linh đưa ra thường hay có. Theo các tài liệu những con trâu bò già, gây yếu, mắt lờ đờ, khi đi đầu hay quay nghiêng, đứng hoặc nằm thường hay thở khò khè như bị hen thường là trâu bò có ngưu hoàng.
Tốt nhất là khi mổ trâu bò, lấy túi mật thì nắn túi và ống mật hễ thấy có cục rắn cứng thì nên sớm rạch túi mật ra, lọc qua rây, lấy mật riêng và ngưu hoàng riêng. Nếu để lâu, dịch mật ngấm vào ngưu hoàng sẽ làm ngưu hoàng bị đen, phẩm chất kém.
Sau khi lấy ngưu hoàng chú ý dùng vải mềm hay gạc sạch gạt bỏ các màng nhầy dính xung quanh, dùng thông thảo hoặc bắc đèn đúng tâm thảo (xem vị này) hoặc bỏng bọc lại, ngoài cùng bọc một lớp vải thưa, buộc cẩn thận. Cho vào hộp kín trong có vôi cục chưa tôi hoặc gạo rang hay silicagien để hút ẩm. Chú ý hợp phải kín thì khả năng hút ẩm của või hay gạo rang mới thể hiện tốt. Nhất thiết không phơi nắng hay sấy lửa hoặc để ở chỗ có gió mạnh vì sức nóng ánh sáng mặt trời hoặc gió mạnh làm ngưu hoàng nứt vỡ, sẵm lại, phẩm chất sẽ kém. Mùa thu hoạch quanh
năm.
Tuỳ theo trình độ kết sạn, ngưu hoàng to nhỏ không nhất định, lớn có thể bằng quả trứng gà. nhỏ bằng hòn cuội hoặc như viên sạn. Khi cái ngang trông thấy như gồm nhiều lớp dính chặt vào nhau có màu vàng nâu hoặc nâu đó. Cần gói kín, để trong lọ màu dưới đáy có gạo rang hoặc với cục.
Ta nên chú ý khi khai thác vì nhu cầu trong nước hàng năm tuy chì chừng 20kg, nhưng trị giá tới 240.000đ, và lại ngay Trung Quốc là nơi ta vẫn nhập cảng vẫn phải nhập của châu Úc, Canada và Ấn Độ.
Thành phần hoá học
Trong ngưu hoàng có axit cholic, cholesterol, ergosterol, axit béo, este photphoric, bilirubin, vi- tamin D, muối canxi, sắt, đồng v.V…
Trong ngưu hoàng của châu Úc, người ta còn lấy ra các loại carotenoit và các axit amin như alanin, glixin, torin, axit axpactic, acginin (leuxin) và methionin.
Trên cơ sở thành phần hoá học của ngưu hoàng thiên nhiên gần đây xưởng thuốc Thiên Tán Trung Quốc đã chế ra ngưu hoàng tổng hợp trị giá vẫn tới 6.000₫ một kg bao gồm bilirubin 10g, cholesterol 7g, axit cholic 10g, muối vô cơ Ig, bilirubin chế từ mật lợn, từ óc bò và axit cholic ở gan bò hoặc mặt bò.
Tác dụng dược lý
Ngưu hoàng tổng hợp được bán dưới dạng bột, màu cá vàng, mùi thơm như mùi mít chín, đựng trong lọ màu. Ngưu hoàng là một vị thuốc đã được ghi chép sử dụng từ lâu trong đông y. Ngay trong Thần nông bản thảo đã ghi chép là “vị thuốc chủ trị kinh giản, sốt hoá điên cuồng”.
Những năm gần đây, được nghiên cứu nhiều. Sau đây là một số kết quả:
Tác dụng đối với trung khu thần kinh
a) Trong báo The Journal of Oriental medecine 33. (5) 1940, nhà bác học Nhật Bản đã báo cáo: Cho chuột nhắt uống rượu ngưu hoàng với liều 5mg/ 10g thể trọng, mỗi ngày uống một lần, uống liên tục 4 đến 8 ngày, một giờ sau khi cho uống liều cuối cùng thì tiêm dưới da hoặc đầu long não (5-10mg/10g thể trọng) hoặc dung dịch cafein benzoat natri (6mg/10g thể trọng) hoặc picrotoxin (0,02mg/10g thể trọng) hoặc stricnin (0,002mg/20g thể trọng) để gây co quắp thì thấy ngưu hoàng có tác dụng ngăn trở sự hưng phấn của long não, cafein và picro-
toxin, nhưng không có tác dụng đối với sự hưng phấn đi tới co quắp của stricnin. Nhưng, sau khi liên tục cho uống ngưu hoàng rồi tiềm dưới da cloranhydrat, hoặc uretan hoặc bacbital để ức chế trung khu thần kinh thì thấy ngưu hoàng có tác dụng giúp cho tác dụng trấn tĩnh được kéo dài.
Ông còn chứng minh bằng thực nghiệm rằng tác dụng trấn tĩnh của ngưu hoàng chủ yếu là do axit cholic, còn muối canxi cũng hơi có tác dụng trấn tĩnh nhưng không phải là chất tác dụng chủ yếu.
b) Năm 1956. Chu Nhan (Trung Quốc) đã báo cáo thấy ngưu hoàng có tác dụng bảo vệ chuột nhất khỏi tác dụng cơ quắp gây nên bởi cocain và mophin.
Tác dụng đối với máu
a) Trong tạp chí Đông kinh y sự (Nhật Bản 1931) có báo cáo ngưu hoàng có tác dụng tăng hồng huyết cầu và huyết sắc tố. Trước hết, trích huyết thỏ để đi tới thiếu máu, sau đó cho uống ngưu hoàng để theo dõi sự khôi phục hồng cầu và huyết sắc tố.
b) Trong tạp chí The Journal of Oriental medi-cine 33, (5) 1940, một tác giả Nhật Bản khác đã chứng minh lần nữa trên thực nghiệm tác dụng sinh sản hồng cầu và huyết sắc tố của ngưu hoàng và còn chứng minh rằng tác dụng đó chủ yếu do vita-min D, bilirubin và ecgosterol.
Nhưng trong ngưu hoàng có axit cholic có tính chất của saponin làm giảm sức căng mặt ngoài cho nên nếu tiếp xúc trực tiếp với hồng cầu như tiêm mạch máu, có thể gây phá huyết.
Tác dụng đối với tim mạch
Do thành phần axit cholic của ngưu hoàng nên có tác dụng gắn giống dương địa hoàng Digitalis.
Nhưng nếu tiêm lượng lớn ngưu hoàng vào tĩnh mạch con chó thì thấy tác dụng trực tiếp ức chế cơ
tim, đưa đến hạ huyết áp, họ hấp tăng mạnh.
Theo Chu Nhan (Trung Quốc) thì năm 1952 có tác giả nói ngưu hoàng uống vào làm mạnh tim, co mạch và đưa đến tăng huyết áp.
Công dụng và liều dùng
Ngưu hoàng thường được dùng trong nhân dân làm thuốc trấn tĩnh và mạch tim trong các triệu chúng điên cuồng, sốt quá phát cuồng, co quắp, trẻ con bị kinh phong.
Thường uống dưới dạng bột hay phối hợp với các vị thuốc khác làm thành viên.
Có thể làm truy thai do đó sách cổ có ghi cấm dùng cho phụ nữ có thai. Liều dùng 0,3-0,6g.
Theo tài liệu cổ, ngưu hoàng có vị đăng, tính bình, hơi có độc, vào hai kinh tâm và can. Có tác dụng thanh tâm giải độc, chữa hồi hộp, khai đờm. Dùng trong các bệnh nhiệt quá phát cuống, thần trí hôn mà, trúng phong bất tỉnh, cổ họng sưng đau, ung thư, đinh nhọt. Doanh phận không có nhiệt và phụ nữ có thai không dùng được.
Đơn thuốc có ngưu hoàng
Chữa bệnh viêm não (encephaline B.)
(Trung Hoa y học tạp chí 2/1956, 110-113).
Còn dùng chữa sốt nóng, sốt quá nói mê, co quắp.
Ngưu hoàng, uất kim (nghệ), tê giác, hoàng liền, hoàng cẩm, sơn chi (dành dành), chu sa, hàng hoàng (As,S,) mỗi vị 40g, xạ hương, bằng phiến mỗi vị 10g, trân châu 20g. Tất cả tán nhỏ, dùng mật viên thành viên, mỗi viên nặng 4g. Bảo quản trong viên sáp.
Mỗi lần uống 1 viên. Bệnh nặng thể thực có thể uống thêm. Trong ngày có thể uống tới 3 viên. Trẻ con giảm liều xuống một nửa. Phụ nữ có thai không dùng được.