Long Nha Thảo (Tiên Hạc Thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

185
Long Nha Thảo
Long Nha Thảo
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Long Nha Thảo trang 286-287 tải bản PDF tại đây.

Còn có tên Tiên Hạc Thảo.

Tên khoa học Agrimonia nepalensis D. Don (Agrimonia eupatoria auct. non L.).

Thuộc họ Hoa hồng Rosaceae.

Mô tả cây

Loại cỏ cao 0,5-1,5m, toàn thân và mang lông trắng, nhiều cành. Thân rễ mọc ngang, đường kính có thể đạt tới 1cm. Lá mọc so le, kép, dìa lẻ, lá chét hình trứng dài, mép có răng cưa to. Cạnh những lá chét to có nhiều lá chét nhỏ. Lá chét to dài chừng 6cm, rộng chừng 2,5cm, lá chét nhỏ có khi chỉ dài 5mm. Cả hai mặt lá đều mang nhiều lông. Hoa nhỏ mọc thành chùm mọc ở đầu cành hoặc kẽ lá, Cánh hoa màu vàng. Quả gồm 2-3 quả bế bọc xung quanh bởi đế hoa có đài ở mép trên. Toàn bộ có nhiều gai.

Phân bố, thu hái và chế biến Cây mọc hoang ở miền Bắc Việt Nam (quanh thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn), chưa được khai thác ở nước ta.

Tại các nước khác cũng có: Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản. Triều Tiên. Thu hái: Thường nở hoa vào mùa hạ. Cay hái vào mùa thu. Phơi khô trong mát.

Long Nha Thảo
Long Nha Thảo

Thành phần hóa học

Nhiều người nghiên cứu, nhưng báo cáo chưa thống nhất.

  1. Có tài liệu cũ nói trong long nha thảo có tanin, có phản ứng phloroglucotanoit, rất ít tính dầu, không có ancaloit, không có glucozit, không có chất béo, có sterol và một đường.
  2. Năm 1939-1940 và 1950 Ngô Văn Thùy và Cừu Tác Lâm đã nghiên cứu lấy ở long nha thảo một chất màu đỏ nâu gọi là agrimonim (có C, H, N, O) và nhiều axit tanic.
  3. Năm 1958, theo báo Hóa học thế giới (1- 7-1958), các tác giả Hứa Thực Phương và Lưu Tỉnh Giai đã chiết xuất từ long nha thảo được các chất sau đây:

a) Chất agrimonin A có tinh thể màu trắng, độ chảy 288-290 độ , công thức thô tạm định là C29H49O5,, có tính chất một sterol;

b) Chất agrimonin B tinh thể màu trắng, độ chảy 235 độ, công thức thô tạm định là C14H19O10. có tính chất một axit nhân vòng;

c) Chất agrimonin C đun tới 340độ thì bị phân giải, có tính chất phenol;

d) Một chất axit là một chất bột, vô định hình, màu nâu hòa tan trong dung dịch kiếm rồi sấy khô tức là chất lưu hành trên thị trường với tên long nha thảo tố. Cả 4 chất trên thử được lý đều không thấy tác dụng cầm máu.

Tác dụng dược lý

Long nha thảo có tác dụng tiêu viêm, săn, tăng sự dinh dưỡng của tế bào, tăng sức động của huyết dịch.

Hai nhà nghiên cứu Ngô Văn Thùy, Cầu Tác Lâm đã tiến hành thí nghiệm tác dụng của long nha thảo trên chó, thỏ và ếch đã đi đến một số kết luận sau đây:

  1. Làm tăng huyết áp của chó và thỏ, có lẽ do tác dụng co mạch.

Đối với ếch liều nhỏ có tác dụng làm tim đập mau (tăng tần số tim đập) và làm hẹp biên độ. liều lớn có tác dụng làm liệt tim.

  1. Làm tăng tốc độ đông của huyết dịch.
  2. Kích thích trung khu hô hấp, liều cao, lúc đầu gây hô hấp mau lên, nhưng về sau lại suy yếu. Liễu độc đối với thỏ là 0,2g/kg thể trọng.
  3. Đối với tử cung cô lập, liều nhỏ hơi có tác dụng hưng phấn, liều cao ngược lại, có tác dụng di hoãn.
  4. Đối với cơ của xương thì có tác dụng hưng phấn, nhưng đối với thần kinh cơ ở các khớp thì lại hơi có tác dụng tế như hiện tượng trúng tên độc.
  5. Hơi làm dãn đồng từ của ếch. 
  6. Tăng sức đề kháng của tế bào. 
  7. Làm hạ huyết đường.
  8. Không có ảnh hưởng đối với trung khu thần kinh và thần kinh giao cảm.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân dùng long nha thảo làm thuốc cầm máu chữa bệnh đi ỉa ra máu, thổ huyết, ho ra máu, đổ máu cam, tử cung xuất huyết. Ngày uống 6-15g dưới dạng thuốc sắc, chia nhiều lần uống trong ngày.

Còn dùng làm thuốc bổ tim, chữa mụn nhọt, chữa lỵ.

Các đơn thuốc có long nha thảo 

Long nha thảo tổ:

Thuốc tiêm chế bằng thuốc sắc long nha thảo đã loại tanin, saponin, đường, protit. Sau đó dùng dung mới tinh chế nhiều lần được chất vô định hình thì chế thành thuốc tiêm, mỗi ống 5ml có 0,01g long nha thảo tố.

Có khi chế thành thuốc nước hoặc viên, dùng trong các trường hợp bị thương băng huyết tử cung, xuất huyết, thay ecgotin.

Ái mẫu ninh:

Long nha thảo tố và cao lỏng đương quy chế thành thuốc viên, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 2-4 viên.

Dung dịch ái mẫu ninh: Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa con.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!