Đinh Lăng – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

146
Đinh Lăng
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Đinh Lăng trang 828 – 830 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là cây gỏi cá, nam dương làm

Tên khoa học Polyscias fruticosa (L.) Harms (Panax fruticosum L, Nothopanax fruticosum (L.) Miq.. Tieghenopanax fruticosus (L.) R. Vig.

Thuộc họ Ngũ gia bì Araliaceae.

Ta dùng rễ hay vỏ rễ phơi hoặc sấy khô của cây đinh lăng.

Mô tả cây

Đinh lăng còn gọi là cây gỏi cá (vì nhân dân thường lấy lá để ăn gỏi cá, nhưng tên đinh lăng phổ biến hơn) là một loại cây nhỏ, thân nhẵn, không có gai, thường cao 0,8 đến 1,5m. Lá kép 3 lần xẻ lông chim dài 20-40cm, không có lá kèm rõ. Lá chét có cuống gây dài 3-10mm, phiến lá chết có răng cưa không đều, lá có mùi thơm. Cụm hoa hình chuỳ ngắn 7-18mm gồm nhiều tán, mang nhiều hoa nhỏ. Tràng 5, nhị 5 với chỉ nhị gầy, bán hạ 2 ngăn có địa trắng nhạt. Quả dẹt dài 3-4mm, dày 1mm có vòi tồn tại.

Đinh Lăng
Đinh Lăng

Phân bố, thu hái và chế biến

Đinh lăng là một cây được trồng phổ biến làm cảnh ở khắp nước ta, mọc cả ở Lào và miến nam Trung Quốc.

Trước đây không thấy dùng làm thuốc, gần đây do sự nghiên cứu tác dụng bổ mới bắt đầu được dùng. Thường đào rễ, rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô.

Thành phần hoá học

Trong đinh lăng đã tìm thấy có các alcaloit, glucozit, saponin, flavonoit, tanin, vitamin B, các axit amin trong đó có lyzin, xystei, và methionin là những axit amin không thể thay thế được (Ngô Ứng Long-Viện quân y, 1985).

Tác dụng dược lý

Năm 1961, các khoa dược lý, dược liệu và giải phẫu bệnh lý Viện y học quân sự Việt Nam nghiên cứu tác dụng của đinh lăng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể và một số tác dụng khác đã đi đến kết luận sau đây:

  1. Nước sắc rễ đinh lăng có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể trên thí nghiệm cấp tính tương tự như nhân sâm.

Tìm thất và các cây khác cùng họ có tác dụng làm tăng sức dẻo dai của cơ thể (thí nghiệm trên

chuột mình tròn lội nước theo phương pháp thí nghiệm cấp tính của L. L. Beckman). Nhưng trên thí nghiệm trường diễn, tác dụng chóng hết và thường hay tích luỹ.

  1. Với liều 0,1ml cao lỏng đinh lăng cho 20g thể trọng sống làm giảm hoạt động của chuột nhắt trắng.
  2. Đinh lăng tác dụng trực tiếp trên cơ tim ếch, cô lập (theo phương pháp Straub) với liều

nhất định làm giảm trương lực cơ tim, làm tim

co bóp yếu và thưa, tiến tới tim ngừng đập.

  1. Dung dịch nước 0,2 đến 1% rễ đinh lăng gây co mạch tai thỏ cô lập theo phương pháp Kravkov.
  2. Với liều 0,5ml dung dịch cao đinh lăng 100-200% trên 1 kg thể trọng tiêm tĩnh mạch vành tai đều tăng cường hô hấp về biên độ và văn số: Huyết áp nhất thời hạ xuống.
  3. Trên tử cung tại chỗ, với liều 1ml dung dịch cao đinh lăng 100% cho 1kg thể trọng tiềm tĩnh mạch vành tai làm tăng co bóp tử cung nhẹ.
  4. Đinh lăng có tác dụng tăng tiết niệu gấp trên 5 lần so với bình thường với liều uống 2ml dung dịch đinh lăng 100% cho 100g thể trọng (thí nghiệm trên chuột bạch Trung Quốc).
  5. Liều độc: Đinh lăng ít độc, so với nhân sâm còn ít độc hơn. Giải phẫu bệnh lý những chuột chết vì liều độc thì thấy gây tổn thương nặng tổ chức cơ sở các tạng nhất là ở gan, thận, tìm, não, cuối cùng chết. Liều độc tiêm phúc mạc DL50 của đinh lăng là 32,9g/kg trong khi đó DL50 của nhân sâm là 16,5g/kg, của ngũ gia bì Liên Xô cũ (Eleutherococcus) là 14,5g/ kg, chứng tỏ đinh lăng ít độc hơn 2 vị thuốc nhân sâm và ngũ gia bì Liên Xô cũ. Cho uống với liều 50g/kg thể trọng chuột vẫn sống bình thường.

Độc tính trường diễn thấy xung huyết ở gan. tim, phổi, dạ dày, ruột, biến loạn dinh dưỡng âm, gan, thận. Trước khi chết có hiện tượng và lỏng, xù lông, mệt mỏi, kém ăn, sụt cân.

  1. Làm tăng sức đề kháng của chuột đối với tác hại của bức xạ siêu cao tần và thấy có tác dụng kéo dài thời gian sống của chuột hơn so với một số thuốc như ngũ gia bì Eleutherococcus của Liên Xô cũ, đương qui, ba kích. Tác dụng này có thể là do tính chất bỏ chung nhưng còn có thể do cơ chế điều nhiệt của đinh lăng.
  2. Ngô Ứng Long và Xavaev (Liên Xô cũ) đã cùng nhận thấy đinh lăng có tác dụng tốt đối các nhà du hành vũ trụ khi luyện tập trong tư thế tình, đầu dốc ngược.

Thực nghiệm trên người, viên bột rễ đinh lăng làm tăng khả năng chịu đựng của bộ đội, vận động viên thể dục, thể thao trong các nghiệm pháp gắng sức cũng như luyện tập.

Công dụng và liều dùng

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu dược lý, Viện y học quân sự Việt Nam năm 1964 cho thí nghiệm dùng trên người thấy với liều 0,23 đến 0.50g bột đinh lăng một ngày dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu nhẹ độ (30) thì có kết quả tăng sức dẻo dai của cơ thể như khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm.

Trong nhân dân, ngoài công dụng ăn gỏi cá, có nơi dùng đinh lăng chữa ho, ho ra máu, thông tiểu, thông sữa, kiết lỵ nặng. Tại Ấn Độ, theo K. M. Naikarai, đình làng được dùng chữa sốt, làm sân đa

Đơn thuốc có đinh lăng

  1. Chữa bệnh mỏi mệt, biếng hoạt động Đinh lăng (rễ) phơi khô, thái mỏng 0,50g. thêm 100ml nước, đun sôi trong 15 phút, chia 2 hay 3 lần uống trong ngày.
  2. Thông tia sữa, công vú sữa

Rễ cây đinh lăng 30-40g. Thêm 500ml nước sắc còn 250ml. Uống nóng. Uống luôn 2-3 ngày, vú hết nhức, sữa chảy bình thường (y sĩ Kim Hoán, y học thực hành. 7-1963).

  1. Chữa vết thương:

Giã nát lá đinh lăng đắp lên.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!