Cây Xấu Hổ (Trinh Nữ) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

407
Cây Xấu Hổ
Cây Xấu Hổ
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Xấu Hổ trang 811-813 tải bản PDF tại đây.

Còn có tên là cây mắc cỡ, cây thẹn, cây trinh nữ, hàm tu thảo.

Tên khoa học Mimosa pudica L.

Thuộc họ Trinh nữ Mimosaceae.

Tên xấu hổ do lá cây và cành cụp xuống khi có người đụng vào lá cây. Ta dùng toàn cây- hoặc lá và rễ cây xấu hổ.

Mô tả cây

Cây nhỏ mọc hoang loà xoà ở ven đường cái, thân có gai hình móc. Lá hai lần kép lông chim, nhưng cuống phụ xếp như hình chân vịt, khẽ động vào lá cụp xuống. Cuống chung gầy, mang nhiều lông, dài 4cm, cuống phụ 2 đôi, có lông trắng cứng. Lá chét 15-20 đối nhỏ, gần như không có cuống.

Hoa màu tím đỏ. tụ thành hình đầu trái xoan, Quả giáp dài 2cm, rộng 3mm, tụ thành hình ngôi sao, ở phần giữa các hạt quả hẹp lại, có lông cứng ở mép. Hạt gần như hình trái xoan, dài 2min, rộng 1,5mm.

Cây Xấu Hổ
Cây Xấu Hổ

Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, không thấy ai trồng. Người ta đào rễ vào quanh năm, rửa sạch đất cát, thái mỏng, phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học

Từ cây xấu hổ người ta đã lấy ra được một chất ancaloit gọi là mimosin C8H10O4N2.
Chất mimosin có độ chảy 231°C . =210 (H,O), cho muối đồng C8H8O4N2CU.
Theo một sốt tác giả (R.Adams và Wibaut) thì mimosin là đồng phân lập thể của leucenol một chất lấy được từ hạt keo dậu Leucaena glauca (xem vị này). Tuy nhiên mimosin chưa phải là hoạt chất độc nhất.

Trong  vào tháng 8, hàm lượng selen là 3.000 YE và giảm dần đến tháng 12 chỉ còn 300 V/g.

Trong quả vào tháng 8, hàm lượng selen là 290 v g và sau đó tăng dần tới 1.560 V/g trong tháng 12.

Và tác giả nhận xét rằng lá cây xấu hổ có hàm lượng selen rất cao vào mùa hè rồi giảm nhanh, trong khi đó hàm lượng selen trong quả lại tăng ( Đàm Trung Bảo và cộng sự-1977. Hội nghị khoa học Trường Đại học dung khoa Hà nội, 1974-1977)

Tác dụng được lý

Đàm Trung Bảo và cộng sự đã nghiên cứu một số tác dụng được lý của cây xấu hổ:

Tác dụng ức chế thần kinh trung ương: Những kết quả nghiên cứu chứng minh kinh nghiệm trong nhân dân dùng cây xấu hổ chống mất ngủ: Hexobacbital và meprobamat chuyển hoá qua microsôm gan để mất tác dụng, bacbitan không chuyển hoá qua gan. Xấu hổ có tác dụng hiệp đồng với hexobacbital, meprobamat đồng thời tăng tác dụng của bibactal. Điều này khẳng định tác dụng ức chế thần kinh trung ương của xấu hổ. Tuy nhiên tác dụng hiệp đồng với babital không mạnh như khi kết hợp cây xấu hổ với meprobamat hay hexobacbital nên các tác giả cho rằng xấu hổ còn ức chế được micrôsôm gan nhờ xúc tác của xytocrom P450, có thể ở đây xấu hổ ức chế men hexobacbital hydroxylaza và menprobamat ca-I oxydaza nên kéo dài thêm giấc ngủ hexobacbital và meprobamat.

Tác dụng chấn kinh:

Xấu hổ có tác dụng làm chậm thời gian xuất hiện co giật của cacdiazol.

Tác dụng giảm đau:

Thí nghiệm theo 3 phương pháp: Mam đồng (ở 56°C), phương pháp Collier (gây đau bằng axetylcolin) và phương pháp Nilsen (kích thích điện) đều thấy có tác dụng rõ rệt.

Tác dụng của xấu hổ giải độc axit asend: Uống xấu hổ cùng một lúc với axit asend thì xấu hổ cứu sống chuột không chết vì asend. Các thí nghiệm đã chứng minh rằng khi dùng axit asenơ thì hàm lượng -SH giảm xuống, và khi dùng xấu hổ thì hàm lượng -SH tăng lên, hỗ hấp tế bào cũng tăng lên.

Công dụng và liều dùng

Chỉ mới thấy được dùng trong phạm vi nhân dàn. Với những công dụng, dạng và liều dùng như sau:

1. Lá cây xấu hổ được dùng làm thuốc ngủ và dịu thần kinh.

Liều dùng hàng ngày 6-12g dưới dạng thuốc sắc, uống trước khi đi ngủ.

2. Rễ cây xấu hổ được dùng chữa bệnh nhức xương.

Dễ cây xấu hổ, thái thành từng miếng mỏng phơi khô. Ngày dùng 120g rang sau đó tẩm rượu 35-40° rồi lại rang cho khô. Thêm 600ml nước, sắc còn 200-300ml. Chia số nước còn lại làm 2- 3lần uống trong ngày. Thường dùng 4-5 ngày thấy kết quả (kinh nghiệm nhân dân ở Diễn Châu. Nghệ An và miền Nam Việt Nam).

Cần chú ý nghiên cứu thêm.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!