Cây Ngọt Nghẹo (Cây Nghẽo Nghọt) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

236
Cây Ngọt Nghẹo
Cây Ngọt Nghẹo
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Cây Ngọt Nghẹo trang 344-345 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Nghẽo Nghọt, Roi, Cỏ Củ Nhú Nhoái, Vinh Quang Rực Rỡ, Phan Ma Ha (Lào), Var Sleng Đồng Đang (Campuchia)…

Tên khoa học Gloriosa superba L. (G.simplex Don.).

Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.

Cây Ngọt Nghẹo là một nguồn conchixin ở nước ta và những nước nhiệt đới khác, đồng thời là một cây làm cảnh vì hoa rất đẹp.

Mô tả cây

Cây ngọt nghẹo là một loại cây sống lâu do thân rễ gồm một chuỗi củ mẫm, hình cung, từ những nơi nhỏ lên mọc các thân cao tới 3-6m, nhẵn mềm, phía đỉnh có cạnh. Lá mọc so le, hay mọc đối, đôi khi mọc vòng, không cuống hay cuống ngắn, phiến lá hình mác trên đầu tận cùng bằng một tua cuộn lại hình xoắn ốc, toàn bộ dài 7-12cm, rộng 2-3cm, gần dọc rất xít nhau. Hoa mọc đơn độc hoặc gần nhau thành ngù giả ở đầu cành, hoa to rất đẹp, cuống dài 10-15cm, dáng đặc biệt, cánh hoa vàng đỏ đẹp ở 2/3 trên. phía dưới màu vàng tươi. Nhị 6 bao phần đính ở giữa. Bầu 3 ngăn, nhiều tiểu noãn. Quả nang hình chùy dài 5-6cm chứa nhiều hạt khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa tháng 5-6. Mùa quả tháng 6-8. 

Cây Ngọt Nghẹo
Cây Ngọt Nghẹo

Phân bố, thu hái và chế biến

Theo tài liệu, cây này được phát hiện tại nhiều nơi ở miền Nam nước ta, nơi có nhiều ánh sáng: Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Quảng trị. Tại miền Bắc cho đến nay chúng ta chưa thấy. Năm 1967 chúng tôi đã xin được giống (hạt và thân rễ) từ Liên Xô cũ về để trồng thí nghiệm và đã theo dõi trong khoảng thời gian từ tháng 8-1967 tới 5-1976 (Đỗ Tất Lợi). Hàng năm cây mọc tốt, năm 1968 bắt đầu ra hoa kết quả bình thường.

Còn mọc ở Ấn Độ, Miến Điện, Malaysia, Phi Châu, Thái Lan, Indonesia.

Cho đến nay chưa thấy ai dùng cây này làm thuốc, ở nước ta chỉ mới thấy ghi rằng thân rễ – rất độc.

Thân rễ thường gồm 2 củ dính nhau thành – hình thước thợ, một củ nhỏ hơn, thân rễ thường, dài 15-20cm, đường kính 2-2,5cm. Khi tươi củ mẫm, ngọt, trên mặt phủ một lớp vỏ màu nâu nhạt, dưới lớp vỏ là một lớp màu vàng nhạt như sáp, điểm những đốm màu vàng sẫm. Phía trong màu trắng gồm những tế bào chứa tinh bột. Dịch thân rễ nhầy, hơi đắng, trong những thân rễ lâu năm tinh bột ít đi. Sấy khô trông dáng tinh bột, nhưng sau khi đồ rồi mới phơi thì vết bé trong cứng.

Thành phần hóa học

Thân rễ tươi chứa khoảng 80% nước, nung cho 4,58% tro kiềm trong đó có nhiều kali 1,53%, tro không tan trong nước, tro thêm axit có sủi bọt.

Năm 1880, Warden phân tích thấy một chất nhựa, một chất đắng mà Warden coi là hoạt chất, đặt tên là superbin và tác giả cho là giống hoạt chất trong củ hành biển (Scilla maritima), một ít axit tanic, tinh bột và đường khử.

Clever, Stanley và Tutin (1915, London J. Chem. Soc.) nghiên cứu thân rễ ngọt nghèo gốc Xay lan (Xrilanca) đã phát hiện cochixin với tỷ lệ 0,3%; chất supecbin của Warden chính là conchixin (có trong tỏi độc với tỷ lệ 0,2% đến 0,8%).

Năm 1941 Current Sci. Inde 10 (10) cũng thấy 0,3% conchixin trong dịch chiết bằng cồn từ thân rễ khô.

Chetteji S. K. và H. D. Ganguili (1948) nghiên cứu bột khô của thân rễ ngọt nghẹo đã đi tới những kết luận sau đây:

  1. Trong quá trình chiết theo phương pháp Stass-Otto, cả ête kiềm, ête axit và clorofoc kiểm cũng không lấy hết chất độc.
  2. Clorofoc axit là dung môi tốt nhất và cặn còn lại có những đặc điểm sau: Vị đắng, phản ứng Maye âm tính, với axit clohydric và axit sunfuric cho màu vàng đậm, với axit sunfuric và kali nitrat tinh thể cho màu tím rồi đỏ, với axit sunfuric và kali bicromat không cho màu, với axit nitric đặc cho màu tím đậm với đìa màu vàng, với dịch Fehling chỉ hơi có tác dụng khử tiêm vào ếch thì ếch chết.

Năm 1952, Subbaratnam (J. Sci. Industr Ris.B. Ấn Độ, 11 (10): 446-447) báo cáo đã chiết được từ thân rễ ngoài conchixin ra, còn lấy được chất ancaloit khác gọi là gloriosin có tinh thể hình phiến chữ nhật, không cho màu với sắt clorua III.

Tác dụng dược lý

Một ít bột thân rễ cho vào chậu nuôi cá, cá chết rất nhanh.

Mặc dầu thân rễ có vị rất đắng nhưng vì miếng thái rất giống gừng cho nên tại Campuchia người ta thường phát hiện một số trường hợp ngộ độc chết người do ăn nhầm thần rễ này.

Công dụng và liều dùng

Như trên đã nói chúng tôi chưa thấy nhân dân ta dùng cây này làm thuốc. Sở đã giới thiệu ở đây là vì đây là một nguồn conchixin có thể dễ trồng và dễ kiếm ở nước ta, thay cho việc trồng cây Colchicum autumnale (tỏi độc) vừa khó trồng, vừa hiệu suất thấp.

Theo Chopra và Badhwar (1940, Ind. J. Agric Sci., 10.41) tại Ấn Độ thân rễ thường được dùng để tự tử hoặc để gây sẩy thai, dịch chiết từ lá dùng diệt chấy.

Cũng theo tài liệu ấn Độ, người ta dùng thân rễ tươi giã nát đắp lên phía trên mu âm hộ để giúp cho dễ đẻ, hoặc để cho nhau thai chồng ra. Có khi người ta chỉ đắp lên trên gan bàn tay bàn chân cũng có kết quả. Cần chú ý nghiên cứu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!