Cây Gạo (Cây Bông Gạo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

173
Cây Bông Gạo
Cây Bông Gạo
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Bông Gạo trang 562-563 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là cây gạo, mộc miên, gòn, roca (Campuchia), ngiou (Lào), kapokier du Tonkin, kapokier du Malabar.

Tên khoa học Gossampinus malabarica (D. C.) Merr., (Bombax malabaricum DC., Bombax heptaphylla Cav.)

Thuộc họ Gạo Bombacaceae.

Mô tả cây

Cây gạo có thể cao tới 15m hay hơn, cành mọc ngang với những gai hình nón, thân cũng có gai. Cành non dày, không gai. Lá sớm rụng, kép chân vịt với 5 đến 8 lá chét hình mác hay hình trứng. dài 9-15cm, rộng 4-5cm. Hoa đỏ, nhiều, mọc trên những cành nhỏ trước khi có lá non. Quả nang hình thoi, dài 8-15cm với 5 van cứng, mặt trong có nhiều sợi bông. Hạt hình trứng, xung quanh có lòng dài, trắng, mịn.

Cây Bông Gạo
Cây Bông Gạo

Phân bố, thu hái và chế biến

Cây gạo được trồng ở khắp các tỉnh miền Bắc nước ta nhất là hai bên đường, Còn mọc ở Ấn Độ, Inđônêxya, Trung Quốc.

Người ta dùng vỏ, rễ và chất gồm của cây gao. Thường dùng tươi. Vỏ cây bóc về cạo bỏ vỏ thô và gai, rửa sạch, thái nhỏ phơi hay sấy khô sắc uống hay giã nát dùng tươi.

Hoa và hạt cũng được dùng.

Thành phần hoá học

Trong vỏ cây gạo có chất nhày. Các bộ phận khác và hoạt chất khác chưa thấy nghiên cứu.

Trong hạt có 20-26% chất béo đặc (nhân chứa tới 35%) màu vàng.

Công dụng và liều dùng

Vỏ gạo thường được dùng bó gãy xương, vỏ tươi giã nát bỏ vào nơi gãy, sao vàng sắc đặc để uống làm thuốc cầm máu, chữa lậu, thông tiểu.

Mỗi ngày uống 15-20g. Có thể sắc và ngậm chữa đau răng.

Do chất nhầy trong vỏ, vỏ gạo còn được dùng để loại bỏ tạp chất khi chế tinh bột, vì chất nhầy có tác dụng quện những tạp chất của tinh bột.

Hoa gạo sao vàng sắc uống chữa ỉa chảy, kiết lỵ. Ngày uống 20-30g.

Hạt còn dùng ép lấy dầu. Khô dầu (bã hạt sau khi ép dầu) được dùng cho súc vật ăn để ra sữa.

Chất gôm cây gạo được dùng uống chữa lậu, thông tiểu, cho mát. Ngày uống 4-10g.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!