Cây Mướp Đắng (Khổ Qua) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

237
Cây Mướp Đắng
Cây Mướp Đắng
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Mướp Đắng trang 751-752 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường Thanh Hoá).

Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.).

Thuộc họ Bí Cucurbitaceae.

Mô tả cây

Mướp đắng là một loại dây leo, thân có góc cạnh, ở ngọn hơi có lông tơ. Lá mọc so le, dài 5- 10cm, rộng 4-8cm, phiến lá chia 5-7 thuỳ hình trứng, mép có răng cưa đều, mặt dưới lá màu nhạt hơn mặt trên, trên gần lá có lông ngắn. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá, đực cái cùng gốc, có cuống dài, cánh hoa màu vàng nhạt, đường kính của hoa chừng 2cm. Quả hình thoi dài 8-15cm, trên mặt có nhiều u nổi lên, quả chưa chín có màu vàng xanh, khi chín có màu vàng hồng, trong quả có hạt dẹt dài 13-15mm, rộng 7-8mm, trông gần giống hạt bí ngô, quanh hạt có màng màu đỏ máu như màng gấc.

Phân bố, thu hái và chế biến

Mướp đắng được trồng ở khắp các tỉnh trong nước ta, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Thường người ta trồng để lấy quả nấu ăn cho mát (giải nhiệt). Mùa quả ở miền Bắc các tháng 5-6-7.

Còn thấy mọc ở miền nam Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tô, Triết Giang). Tại một số nước đông nam châu Á như Ấn Độ, Malaixia, Philipin cũng thấy có.

Thường người ta dùng quả tươi. Hạt phơi khô và lá làm thuốc.

Hình ảnh Cây Mướp Đắng
Hình ảnh Cây Mướp Đắng

Thành phần hoá học

Quả có chứa một chất glucozit đáng gọi là momocdixin. Ngoài ra còn có vitamin B, C, adenin, betain, protein (0,6%).

Hạt có chất dầu và một chất đắng chưa xác định. Năm 1950, Airan J. W. và N. D. Gatge (Ấn Độ) có nghiên cứu dầu và khô dầu hạt mướp dáng (Chemical examination of Korlaplants- Chrrent Sci. India, 10.1950).

Công dụng và liều dùng

Ở nước ta, ngoài công dụng làm thức ăn (nấu với thịt làm canh), mướp đắng còn được dùng làm một vị thuốc mát chữa họ, tắm cho trẻ trừ
rôm sẩy, chữa sốt. Theo sách cổ đông y mướp đắng có vị đắng (khổ), tính hàn, không có độc.

Ngày dùng chừng 2 quả bỏ hết hạt, nấu mà än.

Hạt dùng với liều 3g hạt khô, dưới dạng thuốc sắc. Tại nhiều nước khác cũng dùng mướp đắng làm thuốc. Ví dụ tại Poocto-Rico (một nước gần Cuba, châu Mỹ), mướp đắng được dùng chữa bệnh đái đường (Rivera C., 1941. Preliminary Chemical and pharmacological studies cundeamer Momordica charantia Linn-Amer, J. Pharm. 113: 291-296).

Tại Ấn Độ, nước ép của lá dùng làm thuốc gây nên, thuốc tẩy trong những bệnh về đường mật, nó có tác dụng chữa giun.

Đơn thuốc dùng mướp đẳng dùng trong nhân

Nước tắm cho trẻ con nhiều rôm sẩy: 

Mướp đắng 2-3 quả nấu với nước để tắm cho trẻ em. Ngày 1 lần.

Chữa họ:

Mướp đắng 1-2 quả, nấu với nước mà uống làm 1 hay 2 lần trong ngày.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!