Niễng (Củ Niễng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

315
Củ niễng
Củ niễng
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Niễng trang 682-683 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là cô mễ, giao cẩu, lúa miêu, củ niễng, giao bạch tử.

Tên khoa học Zizania latifolia Turcz, (Zizania aquatica L., Zizania dahurica Steud, Hydropyrum latifolium Griseb., Limnochloa caduciflora Turcz.)

Thuộc họ Lúa Poaceae (Granineae).

Cây niễng cho vị thuốc là giao bạch tử

Giao bạch tử (Fructus Zizaniae) là quả cây niễng phơi hay sấy khô.

Mô tả cây

Niễng là một loại cỏ sống lâu năm, trông giống lau, sậy, mọc dưới nước hay dưới đất nhiều bùn, cao tới 1-2m, rễ nhiều, thân rễ và thân bò (đường kính 1-1,5cm) rất phát triển. Thân rỗng có vách ngang. Thân đứng, nhẵn, phần dưới gốc rất phát triển, xốp, phía ngọn gầy hơn. Lá dài, hình mác dài từ 0,30-1m, rộng 2-3cm, cả hai mặt đều nháp, hai bên mép dày lên. Cụm hoa là chùy hẹp, dài 30-50cm, trục to nhiều nhánh mang hoa cái ở phía trên và hoa đực ở phía dưới.

Củ niễng
Củ niễng

Thân cây thường bị một giống nấm Ustilage esculentum Hennings (esculenta=ăn được) ký sinh, làm phần thân đó phồng lên, mang nhiều đốm đen, càng già thì càng nhiều đốm đen, cấu tạo bởi bào tử của nấm. Chính bộ phận thân non bị nấm ký sinh được hái bán với tên củ niễng để  xào nấu, vào những tháng 9, 10, 11 đến các tháng 1-2 năm sau. Phần này có đường kính 2,5-3cm, dài 5-7,5cm. Do bị nấm ký sinh, củ niễng (đúng ra chỉ là mầm non) trở thành bùi và béo.

Phân bố, thu hái và chế biến

Caay niễng được một số làng vùng ngoại thành Hà Nội (Kim Mã, Van Hổ, Hồ Tây) trồng lấy củ để bán làm rau ăn. Thường vào tháng 9, người ta trồng bằng cách tách gốc ra lấy mầm rồi trồng ở những nơi nhiều bùn, nước luôn luôn ngập. Trồng mỗi gốc cách nhau 50-60cm thành hàng hay lung tung. Có nơi trồng vào tháng 11-12 sau khi đã phơi nắng cây một thời gian. Sau một năm thì thu hoạch được. Tại nước ta thường người ta không để già để lấy quả. Tại Trung Quốc, người ta chờ cho có quả mới hái quả phơi khô và sử dụng với tên giao bạch tử hay giao câu.

Cây này nguồn gốc ở phía đông Xibêri và còn được trồng ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước châu Á khác.

Thành phần hoá học

Trong lúa miêu (giao bạch tử) có 1,2% protit, 0,1% chất béo và 2,8% chất cacbon hydrat, chừng 0,5% tro.

Trong củ niễng có 88,1% nước,3,2%gluxit, 2,5%,chất protit, 1% muối khoáng, trong đó 0,015% CaO, 0,212% P2O5, và 0,002% Fe2O3.

Công dụng và liều dùng

Quả niễng hay giao bạch tử được dùng trong đông y. Theo đông y, nó có tính lạnh (hàn), vị ngọt (cam), có tác dụng chữa khát, tiêu phiền, điều dạ dày và ruột. Dùng chữa sốt, lỵ trẻ con và còn dùng làm thực phẩm. Liều dùng chữa sốt và lỵ: Mỗi ngày 4-6g quả niễng dưới dạng thuốc sắc.

Củ niễng dùng xào nấu, có vị thơm béo.

Tại một số nước như Nhật Bản, quả niễng được dùng làm thực phẩm ăn độn với cơm.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!