Cây Hoa Hiên (Huyền Thảo) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

235
Cây Hoa Hiên
Cây Hoa Hiên
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Hoa Hiên trang 240-241 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Hoàng Hoa, Kim Trâm Thái, Huyền Thảo, Lelô, Lộc Thống.

Tên khoa học Hemerocallis fulva. L.

Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.

Cây hoa hiên có thể cho ta các vị thuốc sau dây:

  1. Rễ hoa hiên-hoàng hoa thái căn (Radix Hemerocallitis) là rễ và thân rễ phơi khô của cây hoa hiên.
  2. Lá hoa hiên (Folium Hemerocallitis) là lá cây hoa hiên hái tươi mà dùng.

Mô tả cây

Hoa hiên là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ rất ngắn, có rễ mẫm nhưng nhỏ. Lá hình sợi, dài 30-50cm, rộng 2.5cm hay hơn, trên mặt có nhiều mạch. Trục mang hoa cao bằng lá, phía trên phân nhánh, có 6-10 đến 12 hoa. Hoa to, màu vàng đỏ, có mùi thơm, tràng hoa hình phễu, phía trên xẻ thành 6 phiến. Nhị 6. Bầu có 3 ngăn. Quả hình 3 cạnh. Hạt bóng, màu đen. Ra hoa vào mùa hạ và mùa thu. 

Cây Hoa Hiên
Cây Hoa Hiên

Phân bố, thu hái và chế biển

Hoa hiên mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta để lấy hoa nấu canh. Một số nơi dùng lá hay hoa làm thuốc chữa đổ máu cam. Còn mọc ở Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu, lá hái quanh năm; rễ đào vào thu đông, có khi vào các mùa khác, dùng tươi hay phơi khô, thường dùng tươi.

Thành phần hóa học

Khương Chỉ Nghĩa (Viện được học Nam Kinh, Trung Quốc) đã chiết được từ rễ hoa hiên của Trần Giang 3 chất có tinh thể gọi là chất A, B và C có độ chảy 165-167 độ C, qua thí nghiệm dược lý thì có tác dụng ức chế đối với huyết hấp trùng nhưng có độc.

Các bộ phận khác, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Tác dụng dược lý

Năm 1964, Ngô Thế Phương (Bộ môn sinh lý) và Dương Hữu Lợi (Bộ môn dược lý) Trường đại học y khoa Hà Nội đã dựa vào kinh nghiệm nhân dân, nghiên cứu cơ chế tác dụng của hoa hiên trên súc vật thì thấy (Tạp chí đông y số 76 (1966), trang 18-22):

– Dùng nước sắc hoa hiện thời gian Quick giảm rõ rệt, nghĩa là làm tăng tỷ lệ prothrombin toàn phần.

– Cũng như vitamin K, nước sắc hoa hiện có tác dụng chống lại tác dụng của dicumarin. Tiểu cầu tăng, hồng cầu tăng, nhưng số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu không thay đổi.

– Tăng trương lực của tử cung và thành ruột cô lập.

– Tác dụng ngoại vi rõ rệt hơn là tác dụng trung ương.

Công dụng và liều dùng

Hoa hiên mới thấy được dùng trong phạm vi nhân dân.

Theo đông y, hoa hiên có vị ngọt, tính mát, có tác dụng chữa vàng da do rượu, tiểu tiện ra sỏi, sạn, vú sưng đau, máu cam.

Thường dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa sốt, thủy thũng, thân thể bị vàng, tiểu tiện khó khăn, vú sưng đau, lỵ, chảy máu cam, sưng đau khớp xương, nôn ra máu.

Liều dùng hàng ngày là 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay ép tươi lấy nước uống. Dùng ngoài, lấy củ tươi giã nát đắp lên nơi sưng đau.

Gần đây, tại Trung Quốc có nơi dùng rễ hoa hiện điều trị có kết quả rõ rệt bệnh huyết hấp trùng (săn máu, sán máng-schistosomiase), nhưng với liều cao có thể gây mờ mắt.

Đơn thuốc có hoa hiện dùng trong nhân dân

Chữa chảy máu cam: Lá hoa hiện 15-20g,nấu với 300ml nước, cô còn 200ml chia 2 lần  uống trong ngày.

Chú thích:

Tại Trung Quốc, ngoài rễ cây hoa hiên Hemerocallis fulva ra, người ta còn dùng rễ của nhiều loài Hemerocallis khác như Hemerocallis thunbergii Baker. Hemerocallis citrina BarontV H. minor Mill. Ở nước ta tên khoa học chưa được xác định chắc chắn, theo kinh nghiệm loại hoa vàng có tác dụng mạnh hơn loại hoa đỏ.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!