Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Bồ Cu Vẽ trang 93 – 94, tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là đỏ đọt, mào gà, bồ long anh, sâu vẽ, bọ mảy.
Tên khoa học Breynia fruticosa Hool. F. (Phyllanthus introductis Steud. Phyllanthus turbinatus Sima., Phyllanthus simsianus Wall.).
Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.
Mô tả cây
Bồ cu vẽ là một cây nhỏ, thân nhẵn. Lá có hình dáng và kích thước thay đổi, đầu nhọn, phía cuống tù hay nhọn. Chiều dài của lá từ 3- 6cm, rộng 20-45mm, cuống rất ngắn, màu nâu sẫm hay đen. Mặt dưới lá thường có đường về đen do một loại sâu bò để vết lại. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá, gồm 5-6 hoa đực và 1-3 hoa cái, đính trên một cành nhỏ, với những lá bắc khô xác. Quả khô, hình cầu dẹt, màu đen nhạt, đường kính 5mm, phía cuống bao bọc bởi một đài cùng phát triển. Hạt màu nâu nhạt 3 cạnh, cao 3mm trên có phủ một áo hạt màu vàng cam
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang ở khắp nơi trên miền Bắc và miền Trung nước ta. Hình như không thấy mọc ở miền Nam. Rải rác thấy có ở Lào và Cămpuchia. Còn thấy ở Malaixia, Trung Quốc, Philipin. Người ta dùng lá tươi, hái quanh năm.
Thành phần hóa học
Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Công dụng và liều dùng
Còn dùng trong phạm vi nhân dân để chữa rắn cắn: Lá giã nát vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết cắn. Liều dùng 30-40g tươi. Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu về mặt dược lý. Mới đây Viện ký sinh trùng sốt rét Việt Nam thí nghiệm sơ bộ thấy cây này có tác dụng chữa bệnh giun chỉ.
Nhân dân Philipin dùng vỏ thân cây sắc làm thuốc cầm máu, vì có chất chát.
Vỏ cây bồ cu vẽ cạo lấy bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét thì chóng khỏi.