Tàm Sa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

181
Tàm Sa
Tàm Sa
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Tàm Sa trang 1001 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là phân tằm, tám mễ, vãn tàm sa

Tên khoa học Faeces Bombycum hoặc Exerementum Bombycis.

Nguồn gốc và tính chất

Tàm sa là phân tằm phơi khô.

Tất cả những nơi nuôi tằm đều có thể có phân tầm. Thường thu thập phân tâm vào hai mùa xuân hạ. Sau khi lấy phân tâm, loại bỏ những là tầm chưa ăn, các tạp chất, rồi phơi khô là được.

Phân tằm là những thời nhỏ dài chừng 3mm, đường kính 2-3mm, màu nâu đen, mặt không nhẫn, chất cứng nhưng dòn, hơi có mùi hôi.

Thành phần hóa học

Trong tàm sa có vitamin A và B (theo Dược tài học-Bắc Kinh, 1960).

Các tác giả nổi trong tàm sa có 83,77-90,44% chất hữu cơ, độ tro 9,56-16,23%, nitơ toàn phần 1,91-3,60%. Trong phần chất hữu cơ có protit và clorophyl, ngoài ra còn có kích thích tố thực vật heterauxin và histidin.

Tàm Sa

Công dụng và liều dùng

Phân tằm hay tàm sa là một vị thuốc chỉ mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc trừ phong thấp, hóa huyết ứ, chữa đau mắt đỏ, chân tay tê dại.

Tính chất phân tầm ghi trong các sách cổ là vị ngọt, cay, tính ôn, không độc, vào 3 kinh can, tỳ, vị, có tác dụng khử phong táo thấp, dùng chữa phong thấp, khớp đau, ngoài da tê, lưng, chân Lạnh đau, phàm những người không phải tê thấp mà có huyết nóng thì không được dùng.

Ngày dùng 6-12g, có khi dùng tới 30g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc viên. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Đơn thuốc có tàm sa

  1. Chữa bản thân bất toại:

2 bát tâm sa đựng vào 2 cái túi sao nóng để thay đổi chườm vào chỗ đau tê. Đồng thời nấu cháo gạo nếp với quả cật của dế, mỗi ngày 1 quả cật. Dùng trong vòng 10 ngày.

  1. Chữa băng huyết

Tam sa sao vàng tán nhỏ uống mỗi ngày 158. có thể dùng rượu chiêu thuốc.

  1. Chữa đi đái ra đường, miệng khó khát

Tầm sa 40g, nước 600ml, sắc còn 300ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Đơn thuốc này còn dùng chữa thổ tả đi mất nhiều nước quá, miệng khát.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!