Muống Biển – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

219
Muống biển
Muống biển
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Muống Biển trang 639 tải bản PDF tại đây.

Tên khoa học Ipomoea biloba Forsk, (Ipo- moea maritima R. Br., Convolvulus pescaproe L. Batatas maritima Bojer.)

Thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae.

Mô tả cây

Muống biển là một loại cây cỏ mọc bò rất dài, không mọc leo, phân rất nhiều cành, thân tím như thần rau muống ăn, nhưng đặc và không rỗng như thân rau muống, có 2 đường rãnh nông ở hai bên thân dọc theo chiều dài từ mẫu nọ đến mẫu kia. Lá mọc cách, gần như hình vuông, phía cuống hình tim, đầu hơi tròn và xẻ thành hai như hình móng chân con trâu, cuống dài 5-7cm, có khi tới 12cm, phiến lá dài 4-6cm, rộng 5- 7cm, hai mặt đều nhẫn. Lá non có 2 mảnh cụp vào nhau. Hoa lớn, màu hồng tím, giống như hoa rau muống, mọc thành xim ít hoa ở kẽ lá, cuống chung dài 2-4cm. 5 nhị màu trắng đính vào cuối tràng hoa, bao phần chia 2 ngăn nứt theo chiều dọc, tua nhị phình to phía dưới, có lồng. Bầu thượng.

Muống biển
Muống biển

Khi ngắt lá có nhựa đục trắng chảy ra giống khoai lang. Day mọc bò lan trên mặt như nhựa đất; bò lan đến đau, rễ mọc đến đấy.

Phân bố, thu hái và chế biến

Muống biển mọc hoang ở khắp ven biển ở nước ta: Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, An Giang, Minh Hải (Rạch Giá, Bạc Liêu v.v…) ít khi trống, muốn trồng thì trồng bằng cảnh vào mùa mưa, trên đất phù sa. Thu hái vào tháng 5 tháng 6. Hái lá cành non, phơi khô. Có khi dùng cả rễ và dây.

Muống biển còn mọc ở nhiều nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Philipin, Ấn Độ vv….

Thành phần hoá học

Toàn thân có chất nhầy. Những chất khác, chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân dùng muống biển làm thuốc chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, tê thấp, chân tay đau nhức, mỏi, thông tiểu tiện, chữa thủy thũng, đau bụng.

Dùng ngoài, lá muống biển tươi giã nát đắp lên các vết loét, mụn nhọt đang mưng mủ. Hoặc phơi khô, tán nhỏ rắc lên những nơi bị bỏng.

Tại Campuchia, có nơi dùng lá giã nhỏ, trộn với lá dây đau xương, củ sả và vỏ dừa đốt lấy khói xông lên chỗ trĩ hậu môn.

Liều dùng hằng ngày: 20-30g dưới hình thức thuốc sắc hay thuốc xông.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!