Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Mẫu Lệ trang 500-502 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là vỏ hầu, vỏ hà, hầu cồn, hầu của sông, hà sông.
Tên khoa học Ostrea sp.
Thuộc họ Mẫu lệ Ostriedae.
Mẫu lệ (Concha Ostreae), là vỏ phơi khô của nhiều loại hầu hay hà như hầu cửa sông (còn gọi là hầu cồn, hà sông), Ostrea rivularis Gould hầu ve, hầu đá, hầu lăng …
Mẫu là đực, lệ là giống sò to, vì người xưa cho rằng giống sò này chỉ có đực.
Mô tả con vật
Hầu cửa sông là một loại hầu vỏ to và dày, có nhiều hình dáng kích thước như tròn, dài, bầu dục vv… Do bám chen chúc vào nhau trên các vật bám khác nhau nên tạo ra những hình dáng khác nhau. Ngoài các yếu tố như sóng gió, những sinh vật khác bám trên vỏ hầu làm cho hầu có hình dáng khác nhau. Mặt ngoài của vỏ có màu sắm. Hầu nhiều tuổi có thớ vỏ xếp chồng lên nhau theo từng lớp. Mặt trong của vỏ phần lớn có màu trắng, có vỏ màu vàng tím, óng ánh như xà cừ.
Hầu vĩnh viễn không rời vật bám; vỏ hầu chỉ mở đóng để bắt mồi và thở.
Hầu thích nghỉ ở nhiệt độ nước từ 10°C đến 35°C và nồng độ muối từ 4% đến 24%, nếu nước nhạt quả hầu sẽ chết. Môi trường thích nghi nhất cho hầu là nước có nhiệt độ từ 10C đến 25°C, nồng độ muối từ 10% đến 20%, tỷ trọng nước từ 1,003 đến 1,009, đáy nước có chừng 2/3 bùn.
Hầu là loài ăn tạp, ăn cả động vật và thực vật nhỏ lơ lửng trong nước chủ yếu là các loại khuê tảo,
Mùa sinh đẻ: Từ tháng 7-10, nhiều nhất là 8-9.
Phân bố, thu bắt và chế biển
Hầu hết các cửa sông trong 12 tỉnh duyên hải miền Bắc nước ta chỗ nào cũng có, nhiều nhất là ở sông Bạch Đằng (Hải Phòng), sông Chanh (Quảng Ninh), sông Diêm Điền (Thái Bình), Lạch Trường (Thanh Hoá) và Tiên Yên (Quảng Ninh). Có nơi chúng phân bố sâu vào vùng lục địa 25 cây số như sông Lạch Trường hoặc hơn 50 cây số như sông Bạch Đằng. Nói chung là khúc sông nào có nước lợ (nửa mặn, nửa nhạt) là có loại hầu này sinh trưởng. Hàng năm ta có thể thu mua tới hãng 10 nghìn tấn cả ruột lẫn vỏ.
Mùa khai thác hầu vào các tháng 10 đến tháng 3, vì lúc này hầu béo. Nhưng để lấy vỏ hầu chế mẫu lệ, ta có thể thu nhật quanh năm, vì sau khi lấy thịt, thường người ta vứt bỏ vỏ hầu đi.
Khi dùng, người ta có thể dùng vỏ hầu tán nhỏ, hoặc nung nối mi tán nhỏ.
Thành phần hoá học
Vỏ hầu hay mẫu lệ chứa 80-95% canxi cacbonat, canxi photphat và canxi sunfat. Ngoài ra còn có magiê, nhôm và sắt oxyt, chất hữu cơ. Nhưng khi nung lên thì không còn chất hữu cơ nữa.
Thịt hầu chứa 68% nước, 7% protit, 4% gluxit, 2% chất béo và 1% muối khoáng. Người ta thấy thành phần chất dinh dưỡng của hầu có thể so sánh với sữa bò (86% nước, 3,3% chất protit, 5% gluxit, 4% chất béo và 0,7% muối khoáng).
Công dụng và liều dùng
Ngoài công dụng của thịt hầu làm thức ăn quý (ăn tươi, phơi khô hoặc đóng hộp), người là còn dùng vỏ hầu để nung với, làm thức ăn có chất canxi cho gia súc và làm phân bón ruộng.
Trong đông y, mẫu lệ được dùng làm thuốc chữa bệnh đau dạ dày thừa nước chua, bồi bổ cơ thể suy nhược, mồ hôi trộm, băng huyết. Dùng ngoài để chữa mụn nhọt, lở loét. Theo tài liệu cổ mẫu lệ vị mặn, chất, tính hơi hàn, vào 3 kinh can, đởm và thận. Có tác dụng tư âm (nuôi âm) tiềm dương, hoá đờm, có sáp. Dùng chữa cốt nhiệt, di tinh bằng đối mồ hôi trộm. Những người hư mà hàn, thận hư vô hỏa, tỉnh lạnh tự xuất thì không dùng được.
Ngày dùng 3 đến 6g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay thuốc viên.
Đơn thuốc có mẫu lệ trong đông y
1.Thuốc bổ, chữa bệnh có nhiều mồ hôi.
Mẫu lệ 10g, hoàng kỳ 4g, ma hoàng căn 4g. cám 10g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia làm nhiều lần uống trong ngày.
- Thuốc chữa khí hư, hạch đới:
Hoa hoè 40g, mẫu lệ (nung rồi tán nhỏ) 40g.
Hai vị cùng sấy khô, tán bột. Ngày uống 72g bột này (Bản thảo cương mục).
- Mụn nhọt mới sưng, chưa thành mủ.
Dùng phấn mẫu lễ hoả nước mà bôi, khô lại bôi.