Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Thảo Quả trang 409-410 tải bản PDF tại đây.
Còn gọi là Đồ Ho, Tò Ho, Mac Hậu, May Mac Hâu (Thái).
Tên khoa học Amomum tsao-ko Crév. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomum medium Lour.).
Thuộc họ Gừng Zingiberaceae.
Thảo quả (Fructus Amomi tsao-ko) là thảo quả chín và phơi hay sấy khô.
Mô tả cây
Thảo quả là một loài cỏ sống lâu năm, cao chừng 2,5-3m, thân rễ mọc ngang, to thô, có đốt, đường kính chừng 2,5-4cm, giữa có màu trắng nhạt, phía ngoài màu hồng, thơm, mẫm, rất chóng thành xơ. Lá mọc so le, có lá có cuống ngắn, có lá không cuống, bẹ lá có khía dọc, phiến lá dài 0,60-0,70m, rộng tới 0,20m, nhẵn, mặt trên màu xanh sẫm, mặt dưới hơi mờ, mép nguyên. Cụm hoa thành bông mọc từ gốc, dài chừng 13-20cm, hoa màu đỏ nhạt. Quả từ 8 đến 17 trên mỗi bóng, khi chín có màu đỏ nâu dài khoảng 3-4cm, đường kính 2-3cm, khi còn tươi mặt bóng nhẵn, vỏ ngoài dày 5mm. Trong quả chia thành 3 ngăn, mỗi ngăn có chừng 7 hạt có áo hạt hình tháp ép vào nhau, rất thơm
Phân bố, thu hái và chế biến
Thảo quả được trồng và mọc hoang ở những vùng khí hậu mát miền Bắc Việt Nam, chủ yếu tại Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang,
Lai Châu. Còn thấy ở một số tỉnh Hoa Nam Trung Quốc (Quảng Tây, Văn Nam).
Cây thảo quả được đưa vào trồng ở Việt Nam vào khoảng năm 1890, từ các tỉnh biên giới Việt- Trung. Người ta trồng thành rừng rộng, ở độ cao 1.000-1.500m, diện tích hiện nay khoảng 700-800 ha. Thu hoạch vào các tháng 10-12, khả năng ước lượng khoảng 500 tấn mỗi năm. Khi hải về người ta phơi trên phên thưa và sấy lửa nhẹ luôn 3 hay 4 ngày đêm cho đến khi khô. Khi quả thảo quả khô, màu sẽ ngả xám nâu nhạt, nhiều nét nhãn dọc và thường được phủ một lớp phấn trắng, mỗi quả cần nặng chừng 4g. Khi sấy không nên để lửa quá già, vỏ có thể bị cháy sém mà trong ruột hạt chưa thật khô, dễ bị vụn. Sau đó đóng bao, mỗi bao 50 đến 100kg. Để nơi khô ráo.
Khi nào dùng mới bóc vỏ ngoài lấy hạt, nếu bóc lấy hạt ngay sẽ chóng mất mùi thơm.
Thành phần hóa học
Trong thảo quả có chừng 1-1,5% tinh dầu. Tinh dầu màu vàng nhạt, mùi thơm ngọt, vị nóng cay dễ chịu (Đỗ Tất Lợi, 1957).
Năm 1989, Nguyễn Xuân Dũng và cộng sự đã nghiên cứu thấy trong tinh dầu thảo quả có các thành phần chủ yếu: 1-8 cineol (30,61%), trans-2 undecanal (17,33%), citral B (geranial) (10,57%), -terpineol (4,34%).
Công dụng và liều dùng
Thảo quả là một vị thuốc, đồng thời là một gia vị. Thảo quả thường được dùng để thêm vào một số bánh kẹo, đặc biệt loại kẹo chè lam.
Trong thuốc, thảo quả chỉ mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân. Trong các sách cổ, người ta cho thảo quả có vị cay, chát, tính ôn và không độc, vào hai kinh tỳ và vị, có năng lực táo thấp, khứ hàn, trừ đờm, chữa sốt rét, tiêu thực, hóa tích dùng làm thuốc kiện tỳ, giải độc, chữa đau bụng, nôn mửa, hỏi mầm.
Liều dùng hàng ngày: 3 đến 6g dùng riêng hay phố hợp với nhiều vị thuốc khác, sắc hay làm thành thuốc viên.
Theo đông y, phàm âm huyết không đủ mà không hàn thấp thực là không nên dùng.
Đơn thuốc có Thảo Quả dùng trong nhân dân
Chữa hôi miệng: Thảo quả đã dập, ngậm vào miệng, nuốt nước.
Chữa sốt, sốt rét, đặc biệt dùng trong trường hợp sốt ít, rét nhiều, đại tiểu tiện nhiều quá, không ăn được: Thảo quả 10g, kha tử 10g, sinh khương 7 miếng, táo đen 2 quả, nước 600ml, sắc còn 200ml, choa 3 lần uống trong ngày