Cây Sui (Cây Thuốc Bắn, Nong) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

247
Cây Sui
Cây Sui
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Cây Sui trang 321-322 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Cây Thuốc Bắn, Nỗ Tiền Tử, Nong (Lào, Vùng Vientiane).

Tên khoa học Antiaris toxicaria Lesch., (A. innoxia Blume, Antiaris saccidoin Dalz.). Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

Cây có chất độc thường dùng chế tên thuốc độc, cần hết sức cẩn thận.

Mô tả cây

Cây sui là một loại cây lớn, có thể cao tới 30m, có gốc rất lớn. Lá nhị lệ, có cuống dài 8-10m, phiến lá dài chừng 6cm, rộng khoảng 5,5cm. Cả hai mặt lá đều hơi nháp. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, cùng gốc: Hoa đực mọc tụ trên một để hoa phỏng phỏng khum lên, quanh đế hoa có tổng bao gồm nhiều hàng lá bắc, hoa cái mọc đơn độc trên một để cũng có tổng bao. Quả thịt dài 18mm, dày 12mm. Hạt hình trứng, dài 13mm, rộng 8mm

Cây Sui
Cây Sui

Phân bố và thu hái

Cây sui mọc hoang khá nhiều ở các miền núi Việt Nam. Ngoài ra còn mọc hoang cả ở miền nam Trung Quốc (Hải Nam), Ấn Độ, Inđônêxia và Malaixia. Nhân dân vẫn thường lấy nhựa sui bằng cách băm vỏ cây. Thu nhập nhựa chảy ra, dùng để tẩm tên thuốc độc bằng tre hay bằng kim loại để săn bắn thú rừng lớn. Vỏ cây sui được làm chăn đắp hay may quần áo, hoặc làm túi đựng các đồ vật.

Thành phần hóa học

Nhựa sui được nghiên cứu tại các nước từ lâu.

Năm 1890, người ta đã phân tích lấy được từ trong nhựa sui hai chất glucozit làm mạnh tim. độc gọi là anpha antiarin (C-antiarin) và beta antiarin (B-antiarin). a C,H,O 4H,O là một chất bột có tinh thể, phản ứng trung tính. Nó tan trong 250 phần nước ở 20° và 27 phần nước sỐI, 70 phần rượu 85%, 2.800 phần ête.

Thuốc thử kiliani (axit sunfuric có pha sắt ba sunfat) hòa tan antiarin cho dung dịch màu vàng sau ngả màu vàng cam.

HCl pha loãng trong môi trường rượu đun sôi, thủy phân antiarin để cho một đường tương tự như ramnoza gọi antiaroza hay d gulometyloza C6H12O5 và một chất không đường có tinh thể gọi là antiarigenin có độ chảy 180C.

  • a-antiarin chảy ở 242°C (có tài liệu nói độ chảy của antiarin.4H2O là 220-225°C) độ quay cực α=-4°.
  • b-antiarin C29H42O11. 3H2O có cùng một công thức như c-antiarin, nhưng ngậm có 3 phân tử nước. Thủy phân B-antiarin cho 1. ramnoza và antiarigenin. B-antiarin có tinh thể hình kim hay hình trụ. Độ chảy 225°C (có tài liệu nói 206-207C).

Cả hai chất a-antiarin và b-antiarin, khi thủy phân mạnh đều cho dihydroantiarigenin. Do đó các tác giả Tschesche và Haupt (1936) cũng như Reichstein (1948) cho rằng hai chất antiarin chỉ khác nhau do phần đường mà thôi và antiaroza hay d.gulometyloza ở antiarin cũng chỉ là đồng phân của 1. ramnoza (ở antiarin).

Tác dụng dược lý

Các chất a- và B-antiarin đều rất độc và có tác dụng mạnh tìm.

  1. Theo Trần Khắc Khỏi (1937, J. Am. Pharm. Assoc. 26: 214), tác dụng của B- antiarin mạnh hơn α-antiarin.
  2. Theo Ridley H. H. (1930, J. Trop. Med. Hyg.: 185-186) thì nhựa sui nguyên chất sánh và hấp thụ chậm.

Tiêm dưới da cho chó không gây độc thường xuyên. Nhưng nếu dùng nước sắc của cây mã tiền Strychnos ovalifolia để làm lỏng nhựa sui rồi cũng tiêm dưới da như trên thì làm con chó thở mau, khó nhọc, nôn mửa, co quắp rồi chết.

  1. Năm 1949 hai tác giả Trung Quốc Toàn Từ Quang và Hàn Triết Vũ (Trung Hoa y học tạp chỉ 31: 120) có báo cáo về độc tính của antiarin.
  2. Thường người ta cho rằng nhựa sui uống không độc, nhưng nếu có vết thương, vết loét, nhựa vào thẳng mẫu thì rất độc. Nó gây kích ứng mạnh trên da và có thể gây viêm mắt nguy hiểm. Tuy nhiên, người ta ăn những thịt con vật bị tên tẩm nhựa sui bắn chết mà không có hiện tượng ngộ độc.

Công dụng và liều dùng

Có người cho rằng nhựa sui uống vào chữa đau bụng và gây đi ỉa mạnh nhưng việc sử dụng rất nguy hiểm có thể chết người.

Thường người ta chỉ hay dùng nhựa sui tẩm tên độc để săn bắn các thú rừng lớn. Thịt những thú rừng sản được mềm mại ăn được.

Muốn làm chăn sui thay thế vỏ sui may quần áo, người ta ngâm vỏ cây sui trong hồ ao trong vài ngày. Sau đó bóc lấy vỏ. Khi làm vỏ cần chú ý tay và cánh tay không có vết sây sát, thương tổn, vì nếu để nhựa sui vào máu thì bị độc rất nguy hiểm.

Cần chú ý nghiên cứu.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!