Cây Móc Mèo Núi – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

181
Cây Móc Mèo Núi
Cây Móc Mèo Núi
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Móc Mèo Núi trang 713-714 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là vuốt hùm, bonduc, cniquier, pois- quenique, yeux de chat.

Tên khoa học Caesalpinia bonducella Flem.

Thuộc họ Vang Caesalpiniaceae.

Mô tả cây

Cay nhỡ leo, có khi mọc rất dài. Cành khỏe, hình trụ, có nhiều gai nhỏ hình nón. Lá kép hai lần lông chim chẵn, có lá kèm kép gồm 3 lá chét, cuống lá có gai.

Hoa mọc thành chùm ở trên nách lá. Lá bắc hình dài dài độ 1 cm, làm cho ngọn chùm trong như có tóc. Đài 5, tràng 4, hình trái xoan ngược. cánh hoa thứ 5 gấp góc thước thợ ở giữa. Nhị 10, nhụy ngắn, có rất nhiều lỏng. Quả lối, có nhiều gai nhọn, đựng 2 hạt gần hình cầu, rất rắn. Mùa hoa quả: Mùa thu.

Cây Móc Mèo Núi
Cây Móc Mèo Núi

Phân bố thu hái và chế biến

Cây mọc hoang dại phổ biến ở khắp nơi trong nước ta, có khi được trồng làm hàng rào. Khi mọc hoang ở bãi biển, các hạt bị sóng mài trở thành nhẵn bóng giống như viên ngọc màu trắng xám như sừng. Người ta dùng hạt làm thuốc: Hải quả phơi khô, đập lấy hạt, phơi lại cho thật khổ. Hạt gắn hình cầu đường kính 15- 13 mm, vỏ dày 2 mm, rất rắn.

Thành phần hóa học

Trong hạt có 23,92% dầu béo, 1,888% nhựa đắng, 5,452% đường, 4,521% muối vô cơ, chất đạm tan được 3,412% và 18,2% chất đạm không tan, 37,795% tinh bột, 50% độ ẩm.

Dầu màu vàng nhạt, mùi khó chịu, vị hơi đắng do một ít chất nhựa (có thể dùng cồn để loại). Nhựa là thành phần hoạt chất đống dưới dạng bột vô định hình, trắng, đắng, tan trong các dung môi thông thường nhưng ít tan trong ete dầu hỏa. Có tác giả gọi nhựa này là bondixin và cho rằng đây là hoạt chất của hạt.

Canonica và cộng sự (Gazz. Chim Ital., 96, 698, 66, 1966) và M. Erfan Ali và cộng sự (Chem. Ind., 1960, 463) đã thấy trong hạt móc mèo núi có nhiều hoạt chất đẳng đặt tên là α, β, γ,ε, caesalpin.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân dùng hạt móc mèo làm thuốc chữa sốt, và thuốc bổ với liều 0,5-1g một lần, ngày uống 2 hay 3 lần. Còn dùng chữa lỵ, tẩy giun và chữa ho. Nhân dân Ấn Độ, Philipin và đảo Réuynion cũng dùng với cùng một công dụng. Thường dùng phối hợp với hồ tiêu.

Bác sĩ Isnard ở Marseille (Pháp) đã dùng bondixin với liều 0,10-0,20g dưới dạng viên để chữa sốt rét.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!