Cây Khoản Đông Hoa – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

206
Cây Khoản Đông Hoa
Cây Khoản Đông Hoa
Đánh giá

Những cây thuốc và vị thuốc Việt NamĐỗ Tất Lợi

Khoản Đông Hoa trang 794-795 tải bản PDF tại đây.

Còn gọi là Tussilage (Pháp) – Chassetoux (Pháp).

Tên khoa học Tussilago farfara L.

Thuộc họ Cúc Asteraceae ( Compositae ).

Chú thích về tên: Khoản có nghĩa là đến, vì đến mùa đông, cây này nở hoa do đó có tên này. Khoản đồng hoa còn có tên latinh là Filius ante patrem có nghĩa là con đứng trước cha, vì hoa khoản đồng hoa màu vàng, xuất hiện vào tháng hai khá lâu trước khi lá cây xuất hiện. Tên khoa học Tussilago do hai từ tussis có nghĩa là họ, và agere có nghĩa đuổi vì vị thuốc có tác dụng chữa họ. Tên cây ở Pháp còn gọi lá chasse- toux cũng có nghĩa là đuổi ho.

Khoản đồng cho hai vị thuốc:

1. Hoa khoản đông-Flos Farfarae thường gọi là khoản đóng hoa, hái khi còn ở dạng nụ, hải xong phơi hay sấy ngay.

2. Lá khoản đông-Folium farfarae cũng được sử dụng, nhưng ít hơn.

Mô tả cây

Khoản đông là một loại cỏ nhỏ, sống lâu do thân rễ. Nó mọc hoang dại tại những nơi mát, cạnh miệng hố, trên cát hoặc trên đất sét từ vùng đồng bằng thấp đến vùng núi cao. Vào mùa xuân, từ gốc lá mọc lên những cánmang hoa dài 10- 20cm, lá mọc so le, màu tím nhạt, phủ lên cán hoa thành hình vầy. Đầu cán có một cụm hoa hình đầu màu vàng tươi, quanh có lá bắc màu đỏ nhạt. Giữa cụm hoa là những hoa lưỡng tính, xung
quanh là hoa cái cùng màu vàng, hình lưỡi nhỏ. Quả đóng màu nâu, có sợi của lá dài. Sau khi hoa nở, lá mới xuất hiện, mọc thành vòng, mang cuống dài, phiến lá hình tim, mép có răng cưa. Đường kính lá có thể đạt 15-20cm. Mặt dưới có lông, mặt trên bóng. Hình giống hình chân con lừa, do đó tên cây tại một số nước châu âu còn gọi là cây “chân lừa” (pas d’ane).

Cây Khoản Đông Hoa
Cây Khoản Đông Hoa

Phân bố thu hái và chế biến

Cây mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc (Hà Bắc, Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Cam Túc, Nội Mồng, Thanh Hải…), tại nhiều nước châu Âu (Pháp, Sec, Hungari…). Tại Việt Nam chỉ mới thấy có một số người trồng từ giống nhập của nước ngoài. Mùa thu hoạch hoa (trước khi hoa nở) từ tháng 2-4. Phơi hay sấy nhanh, bảo quản nơi khô mát. Lá thu hoạch sau đó. Hoa sau khi thu hoạch, thường cắt bỏ phần cuống dài, cụm hoa đường kính 1-1,5cm, cánh hoa màu vàng tươi, quanh có lá bắc màu tím nhạt, đài hoa có những sợi tơ dài, thơm mùi mật, vị đắng, hơi nhớt.

Thành phần hoá học

Hoa khoản đông chứa 6-8% nước, 10% muối
khoáng, một ít tinh dầu, một ít tanin. Hoa chứa rất nhiều chất nhầy uronic (6,9% đối với trọng lượng hoa khô). Người ta còn xác định được ancol texnenic (arnidiol, và fanadiol), các carotenoit, flavonoit, rutosit và hyperosit (galactosit của quercetol).

Lá khoản đông chứa 2,63% glucozit đáng. 8% chất nhầy, một ít tanin. Trong tro có hàm lượng Zn rất cao (trên 3,26% tính theo ZnCO3).

Công dụng và liều dùng

Hoa và lá khoản đồng là một vị thuốc được dùng lâu đời cả trong đông y và tây y.

Theo tài liệu cổ khoản đồng có vị cay, ngọt, tính ôn, không độc, có tác dụng ôn phế, hạ khí, hoá đờm, chỉ họ, dùng trong những trường hợp họ khí đưa ngược lên, hầu tề, kinh giản, tiêu khát, khó thở. Cách đánh giá khoản đông, thay đổi tuỳ theo tác giả. Yên Quyền đời Đường nói: Hoa khoản đồng trị phế khí súc bách, họ liền miền, ra đờm đặc, phế ung, ho ra máu. Giã Cu Như đời Thanh lại nói: Hoa khoản đồng vị đắng, chủ giáng, khí thơm chủ tán cho nên vào phế thuận khí lại thành huyết trong phế, là thuốc chủ yếu chữa những chúng phế hư, họ lâu, đờm đặc tanh hỏi. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với nhiều vị thuốc họ khác.

Có khi người ta dùng khoản đông hoa chế như sau: Khoản đông hoa sau khi loại hết đất cát, thêm mật ong (cứ 10kg khoản đồng hoa, thêm 2,5kg mật ong). Ngâm trong 2 giờ. Sao lửa nhỏ cho đến khi hết hơi nước, sờ tay vào khoảnđông hoa không còn dính tay.

Tây y cũng dùng hoa khoản đóng chữa ho hen. Thường dùng phối hợp với một số hoa khác trong thang thuốc họ (especes pectorales): Gồm khoản đồng hoa, hoa bouillon blanc, hoa guimauve, hoa mauve, hoa coquelicot, hoa pied dechat, hoa violette. Tất cả trộn đều. Chế dưới dạng thuốc hãm thang thuốc này trong 1lít nước sôi.

Đơn thuốc có khoản đông hoa

1. Trị ho, khó thở dùng khoản đồng hoa, đốt lên, hớp lấy khói.

2. Khoản dòng hoa, bối mẫu, tang bạch bì, từ uyển, tỳ bà diệp bách bộ, quát lâu can, thiên môn đồng, hạnh nhân. Các vị bằng nhau, thái nhỏ, trộn đều. Dùng từ 6-12g hỗn hợp này thêm nước 500ml, đun sôi. Giữ sôi trong 3 phút. Chia nhiều, lần uống trong ngày.

Ngày viết:
Giáo sư – Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi sinh ngày 2 tháng 1 năm 1919 tại xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội và mất ngày 3 tháng 2 năm 2008. Ông là một nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng và là “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam.
LEAVE A REPLY
Please enter your comment!